Thực hiện Đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại đoàn kết toàn dân tộc là tư tưởng nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện lời căn dặn của Bác, từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần làm nên những thành quả vĩ đại, mốc son ngời sáng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, cũng như công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đặc biệt quan tâm đến
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngày 1/2/1942 trong bài báo “Nên học sử
ta”, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân
ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân
ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”(1).
Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa (Tháng
Tám năm 1945), Người viết: “Có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới
giành được độc lập, tự do”(2).
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn đề cao vấn đề đoàn kết gắn với giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Người
nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng đó: “Đoàn kết là sức mạnh của Đảng. Đoàn kết
chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc, hai điều đó không thể tách rời nhau. Kỷ luật
nghiêm để bảo đảm tư tưởng nhất trí và hành động thống nhất của toàn Đảng, toàn
dân”(3).
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội
khóa I, kỳ họp thứ hai bầu ra. Ảnh: TTXVN; Đại biểu dự Đại hội thống nhất Việt
Minh - Liên Việt (3 - 7/3/1951) phấn khởi chúc mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh được
suy tôn là Chủ tịch Danh dự của Mặt trận Liên Việt. Ảnh: TTXVN; Chủ tịch Hồ Chí
Minh với các đại biểu tôn giáo tại Kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa II, tháng
7/1960. Ảnh: TTXVN
Chủ tịch Hồ Chí Minh chúc mừng đồng chí Tôn Đức Thắng được
Quốc hội bầu giữ chức Phó Chủ tịch nước, năm 1960. Ảnh: TTXVN
Trong bài bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam lần thứ bảy mở rộng, ngày 12/3/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập
đến đoàn kết chặt chẽ giữa cán bộ lãnh đạo: “Ngày nay, sự đoàn kết
trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ
giữa các cán bộ lãnh đạo”… “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất
tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”(4).
Bằng lý luận sắc sảo, tầm nhìn rộng lớn từ quá trình hoạt động cách mạng phong
phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết vấn đề đoàn kết thành một triết
lý, một chân lý khoa học: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công,
thành công, đại thành công”(5).
Trước lúc đi xa, trong Di chúc của mình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta những điều căn dặn thiêng
liêng: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của
dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết
nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(6).
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem đại đoàn kết dân tộc là kim
chỉ nam cho mọi hành động. Ảnh tư liệu
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề
ra nhiều chủ trương, chính sách để xây dựng và thực hiện khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Nhờ đoàn kết chặt chẽ nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo
nhân dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược và giành nhiều thành tựu quan trọng, có
ý nghĩa lịch sử về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Một số giải pháp chủ yếu tiếp tục thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc trong thời kỳ mới
Thời kỳ mới, mở ra nhiều thời cơ, thuận lợi mới, nhưng có
không ít khó khăn, thách thức. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục
phát triển mạnh mẽ và tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Một
số thành tựu khoa học - công nghệ, như trí tuệ nhân tạo (AI), rô - bốt, điện
toán đám mây, Internet vệ tinh, chuỗi khối (blockchain),… phát triển đột phá
chưa từng có. Xu thế chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng ngày
càng được nhiều quốc gia quan tâm thúc đẩy.
Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham
quan các gian hàng giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ, giải pháp khoa học - công
nghệ.
Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới
sáng tạo và chuyển đổi số mở ra nhiều triển vọng để đất nước thực hiện thắng lợi
mục tiêu 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam… Sự lãnh đạo của Đảng trong
bối cảnh mới của đất nước và quốc tế sẽ tác động sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để tiếp tục thực hiện đoàn kết dân tộc trong thời
kỳ mới, cần đẩy mạnh thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Thứ nhất, cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục tổ chức thực
hiện hiệu quả Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023, của Hội nghị Trung
ương 8, khóa XIII “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Thông qua Nghị quyết số 43-NQ/TW, Đảng ta đưa ra quan điểm
khoa học, biện chứng, trong đó xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống
quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh
to lớn, yếu tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời, Nghị quyết số 43-NQ/TW định hướng rõ 7 nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu để toàn Đảng, toàn dân thực hiện, cụ thể: 1- Nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và Nhân dân về vị
trí, tầm quan trọng của việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc;
2- Hoàn thiện chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn
dân tộc, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước;
3- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường
đoàn kết trong Đảng, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong xây dựng
và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc;
4- Nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước
trong phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc;
5- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiềm năng sức sáng tạo
của Nhân dân;
6- Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; đẩy mạnh công tác vận động quần
chúng, huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước;
7- Tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước
thiết thực, hiệu quả. Để sớm đưa nghị quyết vào cuộc, cấp ủy, tổ chức đảng thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện, định kỳ sơ kết, tổng kết theo quy định,
kịp thời biểu dương địa phương, cơ quan, đơn vị làm tốt và phê bình nơi không
triển khai hoặc triển khai hình thức, hiệu quả thấp.
Phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổng kết thực
hiện Nghị quyết 18 về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy. Ảnh: TTXVN
Thứ hai, lựa chọn, bố trí, phân công cán bộ thực sự có đức,
có tài sau khi thực hiện sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy theo tinh thần Nghị
quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
Từ trước đến nay, công tác cán bộ có tác động rất lớn đến sự
đồng thuận xã hội và đoàn kết nội bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc”(7); “Công việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém”(8).
Trong bài trả lời phỏng vấn báo chí nhân dịp Xuân Ất Tỵ 2025
với chủ đề “Hội tụ và khát vọng, vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới”, Tổng
Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Về công tác nhân sự, đây là công việc hệ trọng,
là “then chốt” của “then chốt”, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện thắng
lợi các chủ trương, đường lối của Đảng để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”(9).
Chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 -
2030, Trung ương, Bộ Chính trị đã định hướng rất chặt chẽ, kiên quyết không để
lọt vào cấp ủy, lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cán bộ không có bản
lĩnh chính trị vững vàng, không kiên định quan điểm của Đảng, giảm sút uy tín,
gây mất đoàn kết, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, cục bộ địa
phương,…
Hiện nay, việc sắp xếp lại một số ban, bộ, ngành Trung ương,
tỉnh, thành phố và xã, phường, thị trấn đã được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, đảm
bảo lộ trình, bước đi cụ thể và rất khẩn trương. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở các đơn vị được sắp xếp lại hợp lý và vận hành đồng bộ. Đồng thời, thực hiện
tốt chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động bị ảnh
hưởng do sắp xếp lại tổ chức bộ máy.
Tuy nhiên, do nhiều lý do khách quan, chủ quan, nên có địa
phương việc rà soát, đánh giá phẩm chất, năng lực, uy tín của cán bộ chưa chặt
chẽ, việc bố trí, phân công một số cán bộ chưa phù hợp. Dẫn tới, bố trí cấp trưởng,
cấp phó ở một số địa phương, đơn vị chưa thực sự hợp lý, làm cho một bộ phận
cán bộ tâm tư, ảnh hưởng đến sự đoàn kết, nhất trí trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý.
Thời kỳ mới, đòi hỏi các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ
phải hết sức công tâm, khách quan trong đánh giá cán bộ để trình cấp ủy có thẩm
quyền quyết định. Thực tế ở địa phương, đơn vị nào, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân sẽ xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trong Đảng và
trong xã hội thực chất, hiệu quả.
Thủ tướng Phạm Minh Chính trò chuyện với người dân và đội
ngũ công chức xã tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả xã Mỹ Hiệp, tỉnh Đồng
Tháp. Ảnh: VGP
Thứ ba, tiếp tục kiên định thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng.
Từ ngày thành lập Đảng đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, kiên định thực hiện nguyên tắc của Đảng để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Đảng
trên mọi lĩnh vực.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh
hoạt đảng, được quy định trong Điều lệ Đảng, là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt
tập trung và dân chủ trong một mối quan hệ hữu cơ, biện chứng. Như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ./ Cá nhân phụ
trách là tập trung./ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức
là dân chủ tập trung.”... “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần
phải luôn luôn đi đôi với nhau”(10).
Từ thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua các nhiệm kỳ đại hội và những năm đổi
mới vừa qua, Đại hội XIII của Đảng đã đúc kết nhiều bài học kinh nghiệm, trong
đó nhấn mạnh bài học: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng, thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ
thống chính trị, thực hiện nghiêm nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng”(11).
Không có dân chủ thông qua thảo luận, tranh luận để đi đến lựa
chọn phương án có tính khả thi nhất, tốt nhất thì khó tạo được sự thống nhất,
nhưng không có tập trung thì không thể chuyển nhận thức thành hành động để lãnh
đạo giải quyết nhiệm vụ chính trị trên thực tế. Không có tập trung thì Đảng
không thành một tổ chức chiến đấu, một tổ chức hành động. Nguyên tắc tập trung
dân chủ bảo đảm cho Đảng ta thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thống
nhất ý chí và hành động; là cơ sở để xây dựng và củng cố đoàn kết của Đảng, làm
cho Đảng luôn luôn là một chỉnh thể thống nhất được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật
nghiêm minh, khắc phục tình trạng phân tán, cục bộ, bè phái, vô tổ chức.
Trong giai đoạn mới, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tư tưởng
chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và
vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng,
kiên định nguyên tắc xây dựng Đảng,... Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý
nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho
phép ai được ngả nghiêng, dao động”(12).
Nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho Đảng ta thống nhất
về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thống nhất ý chí và hành động. Ảnh: Các đại biểu
biểu quyết tại Đại hội XIII của Đảng. Ảnh: TTXVN
Nhờ kiên định đổi mới có nguyên tắc, thực hiện hiệu quả
nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là nguyên tắc chính trị cốt tử, sống còn của
một Đảng chân chính vì thế Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta, đất nước ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Thứ tư, tiếp tục thực hành tốt dân chủ trong Đảng và dân
chủ trong toàn xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến việc thực hành dân
chủ. Người nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết
mọi khó khăn”(13), đồng thời Người căn dặn: “làm việc phải có dân chủ
bàn bạc, nhưng chú ý dân chủ phải có tổ chức kỷ luật”(14).
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đề ra nhiều
chủ trương đúng đắn về dân chủ: Dân là gốc, tập trung và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; xác định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện phương châm “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Từ Đại hội VI của Đảng đến Đại hội XIII của Đảng, Đảng ta có
bước tiến mới về thực hành dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Trong đại hội
đảng các cấp, trong các hội nghị của Đảng, mỗi đảng viên đều có quyền thảo luận,
bàn bạc, tham gia công việc của Đảng, phê bình, chất vấn đảng viên khác, trình
bày hết ý kiến của mình, có quyền bảo lưu ý kiến hoặc đề đạt lên các cơ quan cấp
trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, nghị quyết, quyết định của tổ
chức đảng được thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số, việc bầu cử trong Đảng
từ chi bộ đến đảng bộ trực thuộc Trung ương đều được bầu cử dân chủ theo nguyên
tắc bỏ phiếu kín, không gò ép, áp đặt.
Quy trình lấy phiếu tín nhiệm và việc ứng cử, đề cử đều được
đưa vào quy định của Đảng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc đề bạt,
khen thưởng và kỷ luật đảng viên trước khi tập thể bàn bạc, quyết định đều lấy
ý kiến góp ý, nhận xét của cơ quan liên quan.
Tiến tới Đại hội XIV của Đảng, Trung ương đã gửi các văn kiện
dự thảo trình Đại hội để lấy ý kiến góp ý của tổ chức đảng, đảng viên và nhân
dân. Đó là cách làm thường xuyên của Đảng để tập hợp trí tuệ của cán bộ, đảng
viên, nhân dân trước vấn đề hệ trọng của đất nước.
Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy, có dân chủ rộng rãi
trong Đảng mới có thể thực hiện được dân chủ trong toàn xã hội, phát huy dân chủ
vừa là yêu cầu để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, vừa là nguyện vọng chính
đáng của đông đảo cán bộ, đảng viên.
Một phiên họp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An. Ảnh: Phạm
Bằng
Đi đôi với thực hành dân chủ trong Đảng, Đảng ta đặc biệt
quan tâm lãnh đạo thực hành dân chủ trong toàn xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng căn dặn: “trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận”(15);
“có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của
nhân dân đưa cách mạng tiến lên”(16).
Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta đã lãnh đạo Nhà nước
thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành văn bản pháp luật để phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, như ban hành Luật Trưng cầu ý dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố
cáo, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở,...
Một trong năm đột phá về công tác cán bộ tại Nghị quyết số
26-NQ/TW, ngày 19/5/2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII “Về tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” nêu rõ: Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật
sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây
dựng đội ngũ cán bộ. Những năm qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có các quyết định,
quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội thực
hiện giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng(17); giám sát
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt
và cán bộ, đảng viên(18); quy định trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy
trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý phản ánh, kiến nghị của
dân(19); hướng dẫn khung để cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung
ương tiếp tục phát huy vai trò nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ(20).
Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặt ra yêu cầu: “Tiếp
tục cụ thể hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”, “nghiên cứu, ban hành cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ”(21)…
Tuy nhiên, phát huy dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật,
kỷ cương trong xã hội, tăng cường đồng thuận xã hội, gắn với đề cao ý thức
trách nhiệm công dân, xử lý nghiêm hành vi lợi dụng dân chủ để chống phá Đảng,
Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Một góc phường Trường Vinh (Nghệ An). Ảnh: Sách Nguyễn
Tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả giải pháp nêu trên,
trong đó, hết sức quan tâm việc lựa chọn, bố trí đội ngũ cán bộ thực sự có đức,
có tài, được nhân dân tín nhiệm, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức và sinh hoạt đảng; đồng thời, tiếp tục thực hành tốt dân chủ trong Đảng và
toàn xã hội, nhất định đất nước ta sẽ có bước phát triển nhanh, bền vững trên
các lĩnh vực trong thời kỳ mới, để thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; thực hiện tốt nguyện ước của Bác Hồ: Đoàn
kết, đại đoàn kết. Thành công, đại thành công.
Nguyễn
Thế Trung
Nguồn:
baonghean.vn (17/8/2025)
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 256
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 595
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 31
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 368
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 119
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 313
(9) Hạnh Nguyên: Hội tụ ý chí và khát vọng, vững bước vào kỷ nguyên phát triển
mới, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 10-1-2025.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 620.
(11]) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 26 - 27
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 33
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 325
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 561
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 183
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 376
(17) Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị “Ban hành Quy
chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội” và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính
trị “Ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị
- xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
(18) Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư “Về giám sát Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng
viên”.
(19) Quy định số 11-QĐi/TW, ngày 18-2-2019, của Bộ Chính trị “Về trách nhiệm của
người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý
những phản ánh, kiến nghị của dân”.
(20) Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, của Ban Bí thư “Ban hành Hướng dẫn
khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai
trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
(21) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 249