image banner
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền dân tộc từ Tuyên ngôn độc lập đến thời đại mới

Tuyên ngôn Độc lập thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ hữu cơ giữa quyền con người và quyền dân tộc. Kế thừa tinh thần nhân quyền của Tuyên ngôn Mỹ và Pháp, Người khẳng định tính chính nghĩa, hợp pháp của cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Giá trị lý luận và ý nghĩa thời sự của tư tưởng này là cơ sở vững chắc để đấu tranh, làm thất bại các chiêu bài lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” của các thế lực thù địch.

Anh-tin-bai

Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Bản Tuyên ngôn không chỉ chấm dứt ách thống trị thực dân, phong kiến mà còn thể hiện sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc. Kế thừa tinh thần Tuyên ngôn Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp (1789), Người khẳng định tính chính nghĩa, hợp pháp của cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, đồng thời đặt nền tảng tư tưởng cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việc nghiên cứu, vận dụng giá trị này góp phần nâng cao nhận thức, củng cố ý chí cách mạng và thúc đẩy phát triển trong bối cảnh hội nhập hiện nay.

Bối cảnh lịch sử, tư duy Hồ Chí Minh và giá trị của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945, thế giới bước vào giai đoạn biến động sâu sắc. Cuộc xung đột toàn cầu đã làm suy yếu nhiều cường quốc đế quốc phương Tây, đồng thời thổi bùng làn sóng phi thực dân hóa trên khắp các châu lục. Các dân tộc thuộc địa lần lượt vùng lên giành độc lập, tự do, khẳng định quyền tự quyết dân tộc. Tinh thần cách mạng, chủ nghĩa dân tộc và ý chí giải phóng dân tộc trở thành sức mạnh lịch sử thúc đẩy sự chuyển dịch trật tự thế giới.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam đứng trước thời khắc lịch sử trọng đại. Sau nhiều thập kỷ chịu ách đô hộ của thực dân Pháp và sự xâm lược tàn bạo của phát xít Nhật, phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam dâng cao. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở thành đỉnh cao của khát vọng độc lập, tự do, thể hiện sức mạnh đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tại thời điểm này, Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng lỗi lạc mà còn là nhà tư tưởng kiệt xuất, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người nhận thức sâu sắc rằng để thành công trong cuộc đấu tranh giành độc lập, cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa quyền dân tộc và quyền con người, lấy độc lập dân tộc làm tiền đề bảo vệ quyền con người, tự do và hạnh phúc của Nhân dân. Đây là tư duy sáng tạo đột phá, gắn quyền lợi dân tộc với giá trị phổ quát của nhân loại.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn kiện này không chỉ tuyên bố chủ quyền quốc gia mà còn khẳng định các quyền cơ bản của con người - quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã khéo léo trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (1789), vừa thể hiện tính toàn cầu của các quyền con người, vừa vạch trần sự phản bội của thực dân Pháp đối với những giá trị nhân bản mà chính họ từng tuyên xưng.

Tư duy Hồ Chí Minh ở đây không dừng lại ở việc tiếp thu các giá trị phổ quát, mà thể hiện sự sáng tạo lý luận đặc sắc: gắn chặt quyền con người với quyền dân tộc - hai phạm trù biện chứng không thể tách rời trong hoàn cảnh một quốc gia bị áp bức. Theo Người, quyền con người chân chính chỉ có thể được đảm bảo khi dân tộc giành được độc lập; ngược lại, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để mọi quyền con người khác được thực thi. Người khẳng định đanh thép: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[1].

Khái niệm quyền con người gắn liền với quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập là sự hòa quyện giữa cái phổ quát và cái đặc thù, giữa giá trị nhân văn chung và hoàn cảnh lịch sử riêng của Việt Nam. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng độc lập dân tộc không chỉ là sự kiện chính trị, mà còn là tiền đề cho một xã hội công bằng, văn minh, nơi mọi người dân được sống tự do, hạnh phúc.

Tư duy này vừa kế thừa tinh thần nhân quyền tiến bộ của nhân loại, vừa phát huy bản sắc cách mạng Việt Nam, mở ra con đường cách mạng vừa bảo vệ chủ quyền quốc gia, vừa thúc đẩy quyền con người toàn diện. Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa giá trị phổ quát và bản sắc dân tộc, Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành biểu tượng thiêng liêng của khát vọng tự do, dân chủ, có ý nghĩa lịch sử và thời đại sâu sắc, vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hôm nay.

Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là sự kết tinh giữa truyền thống nhân văn phương Đông và tinh thần khai phóng của nhân loại, vừa mang giá trị lịch sử, vừa có ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Người kế thừa các giá trị phổ quát về quyền con người được khẳng định trong Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp, đồng thời sáng tạo gắn kết chặt chẽ quyền con người với quyền dân tộc, hình thành một luận điểm mới, giàu tính cách mạng và nhân văn.

Hồ Chí Minh khẳng định quyền con người là quyền tự nhiên, bất khả xâm phạm. Người trích dẫn lời Thomas Jefferson: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”[2], và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi...”[3]. Từ đó, Người làm nổi bật tính bất biến và phổ quát của quyền con người.

Điểm sáng tạo nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc. Theo Người, các quyền cơ bản như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc chỉ được đảm bảo khi dân tộc giành độc lập; ngược lại, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để quyền con người được tôn trọng và phát huy. Lời khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập...”[4] thể hiện rõ quan điểm rằng chỉ khi đất nước độc lập, Nhân dân mới làm chủ vận mệnh của mình.

Người cũng nêu rõ: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng...”, qua đó kết luận rằng quyền độc lập, tự do của dân tộc là điều kiện bảo đảm quyền con người trên mọi lĩnh vực. Độc lập dân tộc mở đường để con người hưởng trọn vẹn các quyền cơ bản, phát triển toàn diện trong một xã hội tự do, bình đẳng, văn minh.

Tư tưởng này phản ánh cái nhìn toàn diện, biện chứng về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa quyền con người và quyền dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là lời tuyên bố sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là tuyên ngôn mạnh mẽ về quyền làm chủ của Nhân dân trên nền tảng bảo vệ quyền dân tộc và quyền con người, mở ra con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa hướng tới một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập vẫn nguyên tính thời sự khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, hội nhập sâu rộng và đối mặt với nhiều thách thức. Giữ vững và phát huy tư tưởng về quyền con người gắn với quyền dân tộc là cơ sở bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ quyền quốc gia, đồng thời nâng cao nhận thức công dân trong xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tư tưởng ấy tiếp tục là kim chỉ nam để kiên định con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, phát huy đại đoàn kết dân tộc, bảo đảm quyền con người gắn liền với phát triển bền vững.

Tính thời sự của giá trị Tuyên ngôn trong bối cảnh hiện nay

Trong bối cảnh thế giới biến động sâu sắc, việc bảo vệ và phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập càng trở nên cấp bách, nhất là trên mặt trận tư tưởng trước các chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ” mà các thế lực thù địch lợi dụng để can thiệp, gây nhiễu loạn nhận thức và phá hoại ổn định đất nước. Âm mưu “diễn biến hòa bình” với chiêu trò nhân quyền, dân chủ đã được Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị chỉ rõ: “Các thế lực thù địch lợi dụng các khái niệm dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc để can thiệp vào công việc nội bộ của ta, phá hoại vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến hành “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội, làm mất ổn định chính trị và xã hội.”[5] Các luận điệu xuyên tạc nhân quyền ở Việt Nam thực chất nhằm phủ nhận quyền con người gắn với độc lập dân tộc, đòi áp đặt mô hình thể chế xa lạ, đi ngược điều kiện lịch sử - văn hóa của đất nước. Vì vậy, phản bác kịp thời, giữ vững nền tảng tư tưởng và ổn định chính trị là nhiệm vụ cấp thiết.

Thực tiễn 40 năm đổi mới khẳng định những thành tựu rõ rệt của Việt Nam trong bảo đảm và phát huy quyền con người trên mọi lĩnh vực. Về kinh tế, nhờ tăng trưởng ổn định, Việt Nam đã vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ tư ASEAN, GDP bình quân đầu người đạt trên 4.763 USD năm 2024; tỷ lệ nghèo đa chiều giảm còn 4,06%, góp phần cải thiện đời sống Nhân dân. Về xã hội, chính sách an sinh được mở rộng, chăm sóc sức khỏe toàn dân, giáo dục phổ cập và miễn học phí ở nhiều cấp học; quyền học tập của trẻ em, người nghèo, nhóm yếu thế được bảo đảm; bình đẳng giới đạt nhiều tiến bộ, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội thuộc nhóm cao nhất châu Á; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ, góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Các quyền dân sự, chính trị được thực hiện phù hợp điều kiện lịch sử - văn hóa, vừa bảo đảm tự do cá nhân, vừa giữ ổn định xã hội - nền tảng cho phát triển bền vững. Thành tựu toàn diện này khẳng định tính ưu việt của con đường xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và quyền dân tộc là kim chỉ nam cho xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân”, nơi quyền con người được bảo đảm đầy đủ. Trong tư duy của Người, quyền con người và quyền dân tộc gắn bó hữu cơ, chỉ trong một quốc gia độc lập, tự do, các quyền mới được thực thi trọn vẹn. Hiến pháp 2013 cụ thể hóa nguyên tắc này, khẳng định quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật, đồng thời không xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc hay quyền của người khác. Hiến pháp cũng bổ sung nhiều quyền mới như bảo vệ đời sống riêng tư, tiếp cận thông tin, sống trong môi trường trong lành, hưởng an sinh xã hội… thể hiện cam kết của Nhà nước trong bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, phù hợp thông lệ quốc tế và đặc thù Việt Nam.

Chủ trương cải cách thể chế, đặc biệt Nghị quyết 27-NQ/TW (2022), tiếp tục yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm đầy đủ quyền con người, nâng cao vị thế quốc gia trong hội nhập sâu rộng. Trong kỷ nguyên số và Cách mạng công nghiệp 4.0, bảo vệ quyền con người được mở rộng sang không gian mạng, chú trọng quyền riêng tư, bảo mật dữ liệu cá nhân thông qua các luật chuyên ngành, kết hợp bảo vệ quyền cá nhân với lợi ích cộng đồng và an ninh quốc gia. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp bảo vệ quyền con người với giữ vững trật tự xã hội, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm nhân quyền qua giáo dục, y tế, giảm nghèo, an sinh xã hội, bình đẳng giới.

Những thành tựu đạt được củng cố niềm tin Nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, hướng tới xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là nền tảng hình thành nền quản trị hiện đại, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập, bảo đảm hài hòa lợi ích cá nhân - cộng đồng, gắn quyền con người với quyền dân tộc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Có thể khẳng định, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người gắn với quyền dân tộc, kết tinh trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, vừa mang giá trị lịch sử trường tồn, vừa có ý nghĩa thời sự sâu sắc. Người khẳng định độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để bảo đảm, phát huy đầy đủ quyền con người. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, quan điểm này tiếp tục định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, là cơ sở lý luận để đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc, góp phần xây dựng Việt Nam độc lập, tự cường, phồn vinh, hạnh phúc.

TS. Thái Doãn Việt - Trường Chính trị tỉnh Nghệ An

 



[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 3

[2] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 1

[3] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 1

[4] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 3

[5] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 35-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, 2020.