Tư tưởng Hồ Chí Minh - sự kết tinh giá trị nhân văn và tầm vóc thời đại, ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc
lập _Ảnh: Tư liệu (Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)
1- Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Được kết
hợp hài hòa giữa tinh hoa nhân loại với giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, vận dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị
soi đường, soi chiếu con đường phát triển, góp phần tạo nên sức mạnh mềm Việt
Nam.
Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh có
sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và hành động, giữa đạo lý và chính trị.
Một trong những điểm then chốt nhất tạo nên sức mạnh soi đường của tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là việc xác lập chính nghĩa như trụ cột của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng và bảo vệ quốc gia. Trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc đến các giá trị phổ quát từ Tuyên ngôn Độc lập của
Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Cách tiếp cận này đã giúp
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, khẳng định tính chính nghĩa của
cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong lòng mỗi
người dân, thu hút sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Chính nghĩa trong tư tưởng của
Người không chỉ là một lập luận chính trị, mà là nguồn sinh lực cho uy tín quốc
gia.
Tư tưởng “Dân là gốc” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh tạo nên nền tảng nội sinh đặc biệt vững chắc. Với Người,
lòng dân - sự tự nguyện gắn bó của quần chúng chính là sức mạnh không thể bị
cưỡng chế, cũng không thể thay thế bằng bất kỳ loại vũ khí nào. Từ kháng chiến
đến kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tổ chức toàn dân thành một chỉnh thể
hành động có ý thức, từ việc xây dựng các mặt trận đoàn kết dân tộc, như Việt
Minh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đến các mô hình “toàn dân kháng chiến”, “mỗi
người dân là một chiến sĩ”. Tất cả đều cho thấy tinh thần đoàn kết, phát huy
sức mạnh dân tộc, mang lại niềm tin lớn lao trong nhân dân.
Khía cạnh truyền thông và
ngoại giao công chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng thể hiện sức mạnh mềm ở
tầm cao chiến lược. Ngay từ thời kỳ hoạt động ở nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vận dụng hiệu quả các hình thức truyền thông mềm, như báo chí, thư ngỏ,
tuyên ngôn, bản yêu sách, trong đó ngôn ngữ được sử dụng không phải là vũ khí
sắc bén mang tính công kích, mà là công cụ gây ảnh hưởng bằng lý lẽ, đạo lý,
hình ảnh mẫu mực của một nhà yêu nước chân thành. Trong suốt cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục phát huy nghệ thuật
thuyết phục bằng cảm xúc và đạo lý, qua các chiến dịch truyền thông hòa bình,
vận động phong trào phản chiến, đặc biệt là các bức thư gửi nhân dân Mỹ.
Tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh là một minh chứng điển hình cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản lĩnh
và linh hoạt. Trong hoàn cảnh bị bao vây, cấm vận, đe dọa chiến tranh, Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chọn đối đầu mà chủ trương “mềm để hóa giải”, “thêm bạn bớt
thù”, “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Các bức thư gửi Tổng thống Mỹ, nỗ lực đàm phán
với Pháp, Mỹ, hay sự tham gia tích cực vào Liên hợp quốc,... không chỉ thể hiện
tầm nhìn chiến lược, mà còn phản ánh cách tiếp cận về ngoại giao linh hoạt,
không nhượng bộ, nhưng sẵn sàng đàm phán vì lợi ích quốc gia - dân tộc và vì
hòa bình, tương lai của nhân loại. Chính tư tưởng này đã trở thành nền tảng cho
chính sách ngoại giao hiện đại của Việt Nam - nơi đạo lý và đối thoại được đặt
ngang hàng với lợi ích và nguyên tắc.
Sự kết tinh giữa lý tưởng
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong tư tưởng
Hồ Chí Minh đã mở rộng sức mạnh mềm Việt Nam, vượt khỏi giới hạn lãnh thổ để
trở thành một hệ giá trị mang tầm nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
muốn một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, mà còn hướng đến một xã hội công bằng,
nơi mọi người dân được sống trong tự do, có cơm ăn, áo mặc và được học hành. Từ
khát vọng thiết thực ấy, Người kiến tạo nên một nền tảng đạo lý vừa sâu sắc,
vừa gần gũi - một nền đạo lý đủ sức lay động được lương tri của nhân loại.
Điều tạo nên chiều sâu
nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là khả năng chuyển hóa lý luận cách mạng
thành đường lối gần dân, bền vững, phù hợp với đặc điểm lịch sử - xã hội Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận dụng linh hoạt, sáng tạo gắn với điều kiện
cụ thể của Việt Nam, biến các nguyên lý nền tảng thành chiến lược hành động
hiệu quả. Đường lối “kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh
sinh” không chỉ phù hợp điều kiện của Việt Nam, phát huy cao nhất sức sáng tạo
của nhân dân, thế trận chiến tranh nhân dân, mà còn củng cố niềm tin của nhân
dân vào sự tất thắng của sự nghiệp cách mạng. Điều này tạo ra sức hấp dẫn, sức
thuyết phục và khả năng tổ chức xã hội dài hạn. Trong chiều sâu tâm thức cộng
đồng, sự nhất quán đó tạo nên niềm tin - một nguồn sức mạnh quý giá giúp quốc
gia đứng vững trong thử thách.
Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, câu nói bất hủ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không
chỉ là một lời hiệu triệu, một tuyên bố thể hiện khát vọng của toàn dân tộc, mà
còn là biểu tượng đạo lý có sức lan tỏa toàn cầu. Chính sự kết hợp giữa lý
tưởng giải phóng dân tộc và tinh thần nhân đạo phổ quát - sức mạnh đến từ sự
chính danh, từ khả năng khơi dậy lòng yêu nước, từ khát vọng sống làm người tự
do của mỗi cá nhân và mỗi dân tộc đã đánh thức tiềm thức cộng đồng và kết nối
hàng triệu con người vào một lý tưởng chung.
Bên cạnh đó, tư
tưởng “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân” và phương châm “Tất
cả vì phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân” thể hiện rõ triết lý chính
trị mềm hóa quyền lực trong phương thức lãnh đạo đặc biệt - phong cách Hồ Chí
Minh. Ở đó, quyền lực không phải là áp đặt, mà là sự tín nhiệm được nuôi dưỡng
từ phẩm hạnh, lối sống và tinh thần cống hiến. Từ việc yêu cầu cán bộ “nói đi
đôi với làm”, “gần dân, hiểu dân, học dân, kính trọng dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thiết lập một mô thức đạo đức chính trị, nơi lãnh đạo không phải là cấp trên
xa cách, mà là hình mẫu sống động, có khả năng dẫn dắt bằng uy tín, sự gương
mẫu. Đó chính là sức mạnh mềm của chế độ, nơi niềm tin xã hội được hình thành
từ đạo lý phục vụ, chứ không phải từ quyền uy hành chính. Đồng thời, quan điểm
Việt Nam muốn “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán
với một ai”(1); “Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật
thà và bình đẳng với Việt Nam”(2) cho thấy tầm nhìn chiến
lược vượt biên giới: sức mạnh mềm không chỉ để bảo vệ quốc gia, mà còn để mở
rộng quan hệ đối tác nhân văn toàn cầu - nơi Việt Nam xuất hiện như một quốc
gia yêu chuộng hòa bình, thiện chí và giàu bản sắc.
Từ thực tiễn lãnh đạo
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển một quan điểm rất độc đáo, đạo
đức cá nhân của người cán bộ, đảng viên không chỉ là phẩm chất riêng lẻ, mà
chính là năng lượng truyền dẫn sức mạnh mềm của chế độ. Người từng nhấn mạnh:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(3); “muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước”(4). Ở đây, đạo đức không chỉ là chuẩn mực nội
tâm, mà là phương thức thể hiện sinh động nhất của lý tưởng - hiện thân cụ thể
của hình ảnh một chính quyền chính nghĩa, trong sạch, tận tụy vì dân. Sự gương
mẫu của người lãnh đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh là hình thái cao nhất của
tính thuyết phục, là biểu hiện trực tiếp của sức mạnh mềm chính trị - nơi đạo
lý và uy tín có thể làm thay đổi nhận thức, dẫn dắt hành vi và kết nối niềm tin
giữa nhân dân và tổ chức lãnh đạo. Đó không phải là thứ sức mạnh đến từ quyền
uy hay mệnh lệnh, mà là sức mạnh đến từ uy tín được chứng minh bằng hành động,
bằng nhân cách, bằng sự hy sinh thầm lặng.
Một trụ cột quan trọng
khác trong tư tưởng Hồ Chí Minh là việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt chăm lo đời
sống nhân dân vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược chính trị. Người từng
phát biểu: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”(5). Câu nói ấy thể hiện một chân lý sâu sắc, rằng không thể tách
rời độc lập chính trị khỏi công bằng xã hội và an sinh con người. Chăm lo đời
sống nhân dân không đơn thuần là nghĩa vụ từ phía nhà nước, mà còn là một chiến
lược xây dựng sức mạnh mềm dài hạn - nơi an sinh xã hội trở thành chất kết dính
giữa nhà nước và nhân dân, là phương thức nâng đỡ niềm tin, ổn định tâm lý xã
hội và bảo vệ chế độ trước biến động tiềm tàng. Tư tưởng này cũng rất gần với
các lý thuyết hiện đại về “tính chính đáng xã hội”, trong đó tính hiệu quả của
chế độ không chỉ đo bằng sự kiểm soát, mà còn đo bằng khả năng tạo ra cuộc sống
tốt đẹp cho đại đa số nhân dân.
Không dừng lại ở khía
cạnh cá nhân hay chính sách, tư tưởng Hồ Chí Minh còn được biểu hiện rõ nét
trong mô hình tổ chức xã hội, đặc biệt là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn
kết, theo Người, không phải là sự thống nhất áp đặt, mà là một nghệ thuật tổ
chức sự đa dạng thành đồng thuận, biến khác biệt thành nội lực và chuyển hóa
xung đột tiềm ẩn thành hợp tác bền vững. Mô hình Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đoàn thể nhân dân, phong trào quần chúng tự nguyện,... không chỉ đóng vai trò
là các thiết chế hỗ trợ chính quyền, mà còn là môi trường lan tỏa giá trị mềm
của chế độ dân chủ, gắn bó, chủ động, nhân văn. Thông qua đó, sức mạnh mềm
không còn là ý niệm trừu tượng, mà trở thành sinh lực cụ thể của đời sống xã
hội, một sức mạnh mang tính nhân văn, nhưng hiệu quả tổ chức rất cao, làm cho
quốc gia trở nên bền vững từ bên trong và có uy tín hơn trong mắt cộng đồng
quốc tế.
Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, văn hóa và nghệ thuật không chỉ là phương tiện giáo dục hay tuyên truyền,
mà là một hình thức đặc biệt để cảm hóa, thuyết phục. Người khẳng định văn hóa
là động lực, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Người nêu rõ yêu cầu văn hóa
phải soi đường cho quốc dân đi - một cách diễn đạt cô đọng, nhưng sâu sắc về
vai trò chiến lược của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng. Với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, thơ ca không phải là sản phẩm phụ của tư duy chính trị, mà chính là nơi kết
tinh tâm hồn Việt Nam, truyền cảm hứng và thức tỉnh ý chí, hành động. Những áng
văn như “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945 không chỉ mang tính trang nghiêm, đậm
chất nhân văn, tuyên bố nền độc lập của dân tộc, mà còn lan tỏa một thông điệp
chính nghĩa thấm đẫm tinh thần thời đại: quyền hưởng tự do và độc lập là giá
trị phổ quát của nhân loại.
Nhật ký trong tù, tác phẩm được viết bằng
chữ Hán trong hoàn cảnh giam cầm khắc nghiệt, không chỉ là một tác phẩm văn học
có giá trị nghệ thuật và triết lý sâu sắc, mà còn là một biểu tượng của sức
mạnh tinh thần - nơi đạo lý sống, ý chí vượt lên khó khăn, niềm tin cách mạng
được biểu đạt bằng ngôn ngữ thi ca. Thông qua các dòng thơ, như “Thân
thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi đi một
thông điệp mềm đầy sức mạnh: không gì có thể giam giữ được tinh thần và chính
nghĩa. Cũng vậy, các bài thơ chúc Tết hằng năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh không
đơn thuần là lời chúc mừng, mà là thông điệp chính trị - văn hóa mang tính dẫn
dắt xã hội, gắn kết lòng dân, khơi dậy tinh thần yêu nước và khát vọng chiến
thắng quân thù giành độc lập tự do, dựng xây đất nước. Bằng thơ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chuyển đi các thông điệp chiến lược, biến những dòng thơ thành sức
mạnh quy tụ lòng người - đó chính là nghệ thuật vận dụng văn hóa làm nên sức
mạnh mềm độc đáo của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.
Từ toàn bộ hệ thống tư
tưởng và thực tiễn cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể khẳng định rằng:
Người không chỉ là lãnh tụ của một dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, mà còn
là kiến trúc sư của một mô hình sức mạnh mềm kiểu mới - mô hình kết hợp hài hòa
giữa giá trị văn hóa dân tộc, tinh thần nhân văn toàn cầu và tư duy chiến lược
hiện đại. Điều đặc biệt ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở chỗ, tư tưởng của Người hàm
chứa sức mạnh mềm, có sức lay động lòng người.
Cách thức Chủ tịch Hồ Chí
Minh vận dụng để biểu đạt đạo lý, thu phục lòng người, hòa giải mâu thuẫn bằng
chính nghĩa, thuyết phục bằng phẩm hạnh, lối sống giản dị, tinh thần chí công
vô tư,... tất cả đã tạo nên một tổng thể sức mạnh vượt ra ngoài ranh giới thông
thường. Trong đó, đạo đức không chỉ là chuẩn mực cá nhân, mà là nền tảng tạo
lập uy tín lãnh đạo; hình ảnh quốc gia không đến từ tuyên truyền mà đến từ sự
thật sống động; đồng thuận không đến từ cưỡng ép mà từ niềm tin vào một lý
tưởng được minh chứng bằng hành động.
Sức lan tỏa của tư tưởng
Hồ Chí Minh thể hiện cả ở chiều sâu văn hóa và chiều rộng chính trị. Ở tầng
gốc, đó là sự kế thừa và phát triển giá trị truyền thống Việt Nam: lòng yêu
nước, tinh thần đại đoàn kết, đạo lý nhân nghĩa, khát vọng độc lập - tự do. Ở
tầng kết nối, đó là sự hội nhập sâu sắc với các giá trị tiến bộ của nhân loại:
tự do - bình đẳng - bác ái, tinh thần dân chủ, lý tưởng giải phóng con người. Ở
tầng chiến lược, đó là khả năng tổ chức nguồn lực thành thế trận tổng hợp, đủ
để bảo vệ chế độ, định hình hình ảnh quốc gia, thu phục nhân tâm, hóa giải xung
đột và nâng tầm ảnh hưởng quốc tế. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều học giả
phương Tây đánh giá rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà cách mạng
đầu tiên của thế kỷ XX vận dụng nhuần nhuyễn logic của chính trị mềm, không
phải bằng thiết bị công nghệ cao, mà bằng đạo lý, lý lẽ, lập luận có khả năng
thuyết phục sâu sắc.
.jpg)
Tổng Bí thư Tô Lâm trao
biểu trưng tôn vinh các điển hình tiêu biểu toàn quốc trong học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh _Ảnh: TTXVN
2- Trong thời đại ngày
nay, khi thế giới có nhiều chuyển dịch lớn về kinh tế, chính trị, khoa học,
công nghệ, quốc phòng, an ninh,... thì tư tưởng Hồ Chí Minh càng chứng tỏ giá
trị tham chiếu to lớn. Tư tưởng Hồ Chí Minh, với trọng tâm là chính nghĩa, đạo
lý, lòng dân, sự đoàn kết, đạo đức lãnh đạo và chăm lo đời sống nhân dân, cung
cấp một hệ khung lý luận và thực tiễn rất phong phú để định hình chiến lược bảo
vệ quốc gia không chỉ bằng biên giới địa lý, mà bằng nền tảng giá trị và trí
tuệ xã hội.
Đất nước trong hành trình
bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vận dụng, phát huy tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ về chiến lược bảo vệ nền độc lập dân tộc, mà còn về
nghệ thuật xây dựng ảnh hưởng bền vững: từ việc nâng cao uy tín chính trị đến
lan tỏa giá trị văn hóa; từ việc giữ gìn hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế
đến việc phát triển con người. Khi sự nêu gương của người lãnh đạo trở thành
biểu tượng được ngưỡng mộ, khi sự đồng thuận xã hội trở thành nền móng của nội
lực quốc gia - thì đó chính là lúc sức mạnh mềm không còn là khái niệm, mà là
thực tế hiển hiện của một quốc gia vững mạnh từ bên trong và có sức lan tỏa ra
bên ngoài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh với
toàn bộ hệ giá trị sâu sắc về con người, dân tộc, chính trị, văn hóa và đạo
đức, chính là kim chỉ nam cho việc xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Điều đó khẳng định rằng, bảo vệ quốc gia
không chỉ là bảo vệ vùng đất, vùng biển, vùng trời, mà còn là giữ vững chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa, lợi ích quốc gia, văn hóa dân tộc,... lòng tin của
nhân dân, giữ cho vững đạo lý, giữ cho sáng lý tưởng và giữ cho cao phẩm hạnh
lãnh đạo. Chính ở đó, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện hữu gắn với văn hóa của quốc
gia, trí tuệ của dân tộc, là giá trị được chia sẻ không chỉ trong nước, mà với
toàn thể nhân loại.
Vận dụng, phát huy tư
tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay không chỉ là một yêu cầu lý luận, mà
còn là một sứ mệnh chiến lược nhằm củng cố nền tảng phát triển bền vững và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc trong một thế giới đầy biến động, khó đoán định. Trong
thời đại mà các hình thái sức mạnh đan xen, phức tạp, có xu hướng ngày càng
chuyển dịch từ cứng sang mềm, từ vật chất sang giá trị, thì việc khẳng định bản
lĩnh dân tộc, lan tỏa uy tín quốc gia và giữ vững ổn định nội tại cần được đặt
trên nền tảng của hệ giá trị Hồ Chí Minh - nơi đạo lý làm trụ cột, lòng dân là
thành lũy, trí tuệ là công cụ, niềm tin là động lực. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là ánh sáng soi đường để Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên phát
triển mới, hội nhập, nhưng không hòa tan.
Trong kỷ nguyên vươn mình
phát triển của dân tộc, việc bảo vệ Tổ quốc không thể chỉ hiểu theo nghĩa quân
sự hay lãnh thổ, mà cần được nâng lên tầm bảo vệ toàn diện gắn với bảo vệ Đảng,
bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững sự ổn định đất
nước, giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ cho sáng lý tưởng, giữ cho cao phẩm
hạnh lãnh đạo; đồng thời, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt
là đối với Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là nền tảng để quy tụ
sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn xã hội, tạo thế bền, lực mạnh
để ứng phó với mọi thách thức, cả bên trong lẫn bên ngoài.
Đặc biệt, phát huy tinh
thần đoàn kết, khơi dậy khát vọng hùng cường, tiếp tục xây dựng và lan tỏa sự
đồng thuận xã hội, xây dựng thế trận lòng dân gắn với thế trận quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, hình thành thế nước từ gốc rễ niềm tin và ý chí toàn
dân. Ngoại giao Việt Nam phải tiếp tục vận hành theo tinh thần “ngoại giao cây
tre” - mềm mại mà kiên cường, linh hoạt mà vững gốc, thích ứng mà không đánh
mất nguyên tắc,... để làm sâu sắc hơn các mối quan hệ quốc tế chiến lược, nâng
cao vị thế và uy tín quốc gia trên thế giới. Trong nước, đẩy mạnh chuyển đổi số
toàn diện, phát triển kinh tế số, thông minh, sáng tạo, tích hợp trí tuệ nhân
tạo và công nghệ cao vào mọi lĩnh vực quản trị, quốc phòng, giáo dục, văn hóa.
Nhân tài theo đúng tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh cần được xem là nguyên khí
quốc gia, được trọng dụng, bồi dưỡng và tạo điều kiện cống hiến thực chất, để
tham gia trực tiếp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vận dụng, phát huy tư
tưởng Hồ Chí Minh trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cần được
đặt trong tầm nhìn chiến lược, nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội bền vững, hướng tới một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, dân chủ, văn minh
trong thế kỷ XXI. Với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, khi chúng ta bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa giá trị văn hóa dân tộc,
tinh thần nhân văn toàn cầu và tư duy chiến lược hiện đại thì đó là lúc đất
nước ta vươn mình, vững vàng trên đôi chân của trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt
Nam, đạo lý Việt Nam và khát vọng Việt Nam./.
PGS, TS LÊ VĂN HẢI
Trung tướng, Phó Chính ủy Học viện Quốc phòng
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
-----------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 256
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 195
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 16
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 264