1. Kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn sáng suốt, đúng đắn
của Đảng ta ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, là
nguyên nhân gốc rễ dẫn đến mọi thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay. Trong đó, chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nhấn mạnh “là làm cho dân giàu, nước mạnh”(1); với đặc trưng
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới”(2).

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gặp mặt Đoàn đại biểu
doanh nhân tiêu biểu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hội
Doanh nhân tư nhân Việt Nam, ngày 11-10-2024 _Ảnh: Tư liệu
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chứng tỏ rằng, hoạt động sản xuất vật chất của
con người là cơ sở, nguồn gốc, nguyên nhân quyết định nhất tới sự biến đổi xã hội;
sản xuất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội
của con người, mang đến sự hợp tác, yếu tố cạnh tranh thúc đẩy sản xuất lên tầm
cao mới, đồng thời cũng chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển
của xã hội loài người. Theo quan niệm của Mác, biến đổi xã hội thực chất và trước
hết là sự biến đổi của nền sản xuất vật chất và biến đổi của nền sản xuất vật
chất chính là sự biến đổi trung tâm quan trọng nhất quyết định sự biến đổi xã hội.
Trong lộ trình biến đổi xã hội, biến đổi về cơ cấu kinh tế kéo theo biến đổi về
cơ cấu xã hội và biến đổi hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội. Xuất phát từ
“sự thật hiển nhiên,… trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa
là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh giành quyền thống trị, trước khi
có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học,…”(3), chủ nghĩa
Mác đã chỉ ra rằng để con người có thể sống, tồn tại, phát triển thì tất yếu
con người phải sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Đồng thời, “Những thời
đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”(4).
Bên cạnh đó, theo V.I. Lê-nin,
năng suất lao động cao phản ánh bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ
nghĩa tư bản; là tiêu chuẩn quan trọng nhất, chủ yếu nhất tạo nên thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội “Xét đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất,
chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng
suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể bị
đánh bại hẳn và sẽ bị đánh bại hẳn vì chủ nghĩa xã hội tạo ra năng suất lao động
mới cao hơn nhiều”(5).
Như vậy, để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định,
hoạt động sản xuất vật chất của con người có ý nghĩa quyết định nhất, với năng
suất lao động cao là yếu tố then chốt. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo ra những biến đổi
xã hội tích cực, khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập, xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; qua đó, hoàn thành thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
chuyển sang giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa như
Mác đã dự báo trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta “Khi mà cùng với sự phát
triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ cũng ngày càng tăng lên và
tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta mới
có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới
có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”(6).
2. Thực tiễn phát triển
kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân ở Trung Quốc và Nga, cũng như qua 40 năm đổi
mới ở Việt Nam đã để lại những bài học hết sức quý báu. Với Nga, ngay cả
trong thời kỳ phát triển kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Chính sách kinh tế mới
phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, của V.I. Lê-nin
từ năm 1921 đến năm 1991 đã giúp kinh tế Nga phát triển vượt bậc. Trong thời kỳ
này, nước Nga cùng với nhiều nước kém phát triển khác trong Liên bang Xô Viết
trở thành cường quốc đạt tới trình độ cao trong nhiều lĩnh vực như năng lượng,
công nghiệp, vũ trụ. Với Trung Quốc, bắt đầu từ chính sách “Cải cách và Mở
cửa” năm 1978, sửa đổi hiến pháp năm 1988 theo hướng tăng cường bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp tư nhân, công nhận kinh tế tư nhân là một
phần quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tại Đại hội Đảng Cộng
sản Trung Quốc lần thứ XV năm 1997, cam kết bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của kinh tế cá thể và kinh tế tư doanh, kinh tế tư nhân của TQ đã có bước
phát triển bùng nổ, với sự ra đời của nhiều tập đoàn lớn không chỉ thống trị thị
trường nội địa mà còn vươn ra thị trường quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong
các lĩnh vực công nghệ, viễn thông và thương mại điện tử. Hàng loạt doanh nghiệp
tư nhân chiếm phần lớn trong các ngành công nghiệp như sản xuất, dịch vụ, đặc
biệt là công nghệ cao đã đóng góp hơn 60% GDP, tạo ra 80% việc làm ở thành thị
và hơn 70% phát minh, sáng chế trong nền kinh tế Trung Quốc.
Ở Việt Nam, với việc nền kinh tế
nhiều thành phần được thừa nhận chính thức trong văn kiện Đại hội VI của Đảng;
khẳng định khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển ở Đại hội
VII và tiếp tục nhấn mạnh ở Đại hội VIII; có bước phát triển tại Đại hội IX khi
Đảng ta khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan
trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lần đầu
tiên ban hành Nghị quyết chuyên đề “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến
khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”; nhấn mạnh vai trò quan trọng,
là một trong những động lực của nền kinh tế và quy định cụ thể vấn đề đảng viên
làm kinh tế tư nhân ở Đại hội X; khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát về vai trò của
kinh tế tư nhân như là một động lực quan trọng của nền kinh tế tại Đại hội XII,
XIII, kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển khởi sắc. Từ chỗ chỉ tồn tại
“thoi thóp”, “cầm chừng” trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, bị phân biệt
đối xử không chỉ trong ý thức xã hội mà trong cả cơ chế, chính sách nhà nước,
kinh tế tư nhân đã vươn lên mạnh mẽ trong thời kỳ đổi mới, đóng góp ngày càng
nhiều cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho xã hội, phát huy những tiềm
năng, lợi thế sẵn có ở mỗi địa phương cũng như trong cả nước, góp phần quan trọng
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, khẳng định vai trò, động
lực quan trọng trong hội nhập quốc tế.
Có thể thấy, với tầm nhìn, chính
sách đúng đắn, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát
triển kinh tế tư nhân là sự lựa chọn sống còn để thúc đẩy sản xuất vật chất, tạo
ra sự biến đổi xã hội, “sức bật” về trình độ công nghệ, đào tạo nghề, gia tăng
khả năng hấp thu vốn, thúc đẩy tăng năng suất lao động, xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Để phát triển kinh tế tư nhân, vấn đề quan trọng,
cốt lõi nhất là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, với những thay đổi có tính bước ngoặt về tư duy, nhận thức, hành động,
tạo thành đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng so với
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước trước
đây.
Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải (THACO) đầu tư, áp dụng
nhiều công nghệ, máy móc tiên tiến để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm
ô tô _Ảnh: TTXVN
3. Ngày 4-5-2025, Bộ
Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, với
các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đột phá, chưa từng có tiền lệ; định
hình quan điểm mới của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân - động lực mới phát
triển kinh tế trong thời gian tới. Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết số
68-NQ/TW, cần tập trung thực hiện một số công tác cấp bách, sau đây:
Thứ nhất, triển
khai quyết liệt, hiệu quả các công tác sớm đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn
cuộc sống. Ngay trong Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV, Quốc hội sẽ thảo
luận và ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân với các cơ chế, chính
sách ưu đãi cụ thể, khả thi, hiệu quả. Lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai Nghị
quyết số 68-NQ/TW do Thủ trướng Chính phủ làm Trưởng ban, định kỳ hằng tháng rà
soát, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết của các bộ, ngành, địa phương, tuyệt đối
không để xảy ra tình trạng lúng túng, thực hiện theo cách riêng gây mất hiệu lực
chính sách trung ương. Thường xuyên công khai kết quả thực hiện, lấy đây là một
trong những tiêu chí đánh giá năng lực, việc thực hiện chức trách nhiệm vụ, nhất
là đối với người đứng đầu. Thúc đẩy, tạo sự đổi mới mạnh mẽ tư duy hành chính từ
kiểm soát sang đồng hành, coi doanh nghiệp là đối tượng “phục vụ” thay vì đối
tượng “quản lý”, bảo đảm nguyên tắc “nói đi đôi với làm” thống nhất trong toàn
hệ thống chính trị. Chính phủ sớm ban hành chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, địa
phương chuyển toàn bộ quy trình hành chính sang hậu kiểm, trừ một số lĩnh vực đặc
thù (quốc phòng, an ninh…); có hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm công vụ của người
đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp trong hỗ trợ doanh nghiệp, gắn với công
tác thi đua, khen thưởng; chuẩn hóa toàn bộ quy trình cấp phép đầu tư theo mô
hình điện tử, rút ngắn thời gian công bố kết quả.
Thứ hai, khẩn
trương thể chế hoá các quan điểm của Đảng thành pháp luật và bảo đảm thực hiện
nghiêm minh trong toàn hệ thống chính trị, doanh nghiệp, người dân. Nghiên
cứu xây dựng Luật phát triển kinh tế tư nhân và sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp luật có liên quan, bảo đảm thể chế hoá đầy đủ các chủ trương nêu tại Nghị
quyết số 68-NQ/TW. Trong đó, thiết lập hệ thống cạnh tranh công bằng, xác định
rõ danh sách các hành vi tác động tiêu cực đến tiếp cận thị trường và phân biệt
đối xử trong cạnh tranh thị trường đối với kinh tế tư nhân. Tạo ra cơ chế thúc
đẩy đầu tư và hỗ trợ tài chính, yêu cầu các tổ chức tài chính thiết lập hệ thống
đánh giá tín dụng phù hợp với kinh tế tư nhân và hỗ trợ tài chính. Khuyến khích
phát triển khoa học - công nghệ, doanh nghiệp tư nhân đi đầu trong các dự án lớn,
trọng điểm quốc gia và thiết lập các kết cấu hạ tầng nghiên cứu đổi mới sáng tạo
quốc gia. Thiết lập hệ thống bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia
thị trường, phân biệt rõ ràng giữa tranh chấp kinh tế và tội phạm hình sự,
nghiêm cấm các hành vi lạm dụng pháp luật trong quản lý thị trường. Đưa ra các
biện pháp nhằm hỗ trợ dịch vụ thủ tục và chính sách cho kinh tế tư nhân, chuẩn
hoá các thủ tục hành chính và chính sách. Sửa đổi Bộ luật Hình sự, tách bạch rõ
hành vi gian lận - trục lợi với sai sót hành chính thông thường.
Thứ ba, đặc
biệt quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, thúc đẩy phát triển xã hội có
tư tưởng khởi nghiệp, khát vọng làm chủ, đặc biệt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo. Triển
khai ngay gói tín dụng ưu đãi riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua quỹ
bảo lãnh tín dụng nhà nước. Dành quỹ đất ưu tiên 5-10% tại các khu công nghiệp
công nghệ cao cho startup thuê với giá ưu đãi. Mở rộng mô hình sandbox pháp lý
toàn quốc, cho phép thử nghiệm thực tế với fintech, AI, nông nghiệp số trong
khung thời gian bảo vệ pháp lý rõ ràng. Xây dựng trung tâm tư vấn pháp lý miễn
phí hoặc trợ giá cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương.
Thứ tư, xây
dựng đội ngũ doanh nhân thật sự trở thành “chiến sĩ” trên mặt trận kinh tế,
tham gia thực chất trong hoạch định chính sách. Bảo vệ, hỗ trợ, khuyến
khích, tôn vinh đội ngũ doanh nhân có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức
tuân thủ pháp luật, có khát vọng vươn lên làm giàu cho mình và góp phần làm
giàu cho đất nước, có kiến thức và năng lực quản trị kinh doanh trong nền kinh
tế thị trường, có trách nhiệm với người lao động và cộng đồng xã hội. Tạo điều
kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia phản biện chính sách, đóng góp vào quá
trình hoạch định và thực thi chiến lược phát triển. Các bộ ngành khi xây dựng
luật, nghị định cần lắng nghe thấu đáo ý kiến của người dân, doanh nghiệp, nhất
là các doanh nhân thực chiến. Hỗ trợ ngân sách và chuyên môn để xây dựng các hiệp
hội ngành nghề mạnh, độc lập, có năng lực phản biện chính sách. Khuyến khích
thành lập Hội đồng doanh nhân tư nhân cấp quốc gia, tư vấn trực tiếp cho Chính
phủ trong chiến lược kinh tế - công nghiệp dài hạn.
Chúng ta có truyền thống quật cường,
lòng yêu nước nồng nàn, cơ sở lý luận, thực tiễn, cơ sở chính trị - pháp lý chặt
chẽ, toàn diện; với khát vọng, ý chí, sự thống nhất đồng lòng, quyết tâm cao của
cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp, doanh nhân và toàn dân trong thực hiện mục
tiêu “ổn định, phát triển chất lượng cao, nâng cao đời sống mọi mặt của người
dân”, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi Nghị quyết, sớm đưa kinh tế tư
nhân phát triển xứng tầm, thật sự trở thành động lực quan trọng nhất, trụ cột bảo
đảm sự phát triển vững mạnh của nền kinh tế quốc gia, hiện thực khát vọng xây dựng
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh./.
GS, TS Tô Lâm
Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
--------------------------
(1) Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2011, t.9, tr.446.
(2) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2019, tr.502.
(3) Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2002, t.19, tr.166.
(4) Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, sđd, t.23, tr.269.
(5) V.I. Lê-nin, toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
2005, t. 39, tr. 25
(6) Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, sđd, t.19, tr.36