Công tác lý luận của Đảng, định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự Lễ kỷ niệm 75 năm truyền thống Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 17-9-2024 _Ảnh: TTXVN
Sự phát triển lý luận của Đảng
qua 95 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam
V.I. Lê-nin từng nhấn mạnh:
“Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng… chỉ
đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng
làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”(2). Thấm nhuần
tư tưởng đó, trong cuốn Đường kách mệnh, tài liệu học tập
lý luận chính trị đầu tiên của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí
Minh kính yêu đã viết: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng
ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(3). Hành
trình ra đi tìm đường cứu nước của Người cách đây gần 115 năm là hành trình đến
với lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; và từ đây,
Người đã sáng suốt khai sinh ra nền lý luận cách mạng Việt Nam trong thời
đại mới, đặt nền móng vững chắc cho những thành tựu vĩ đại của Đảng và
dân tộc.
Với tầm nhìn xa rộng, cách nay
100 năm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã mở những lớp huấn luyện chính trị đầu tiên để
chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho sự ra đời của Đảng, mà trước hết là huấn luyện về
lý luận - tư tưởng chính trị. Nhiều người trong số những học viên đầu tiên đó
đã trở thành các nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt
Nam, những chiến sĩ cộng sản chân chính, có hiểu biết sâu sắc về lý luận, am tường
thực tiễn, hết mực kiên trung, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do cho Tổ quốc,
vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân.
Trong mỗi bước ngoặt của tiến
trình cách mạng và phát triển đất nước, công tác lý luận của Đảng đã có những
đóng góp hết sức to lớn, để lại những dấu ấn lịch sử vô cùng sâu sắc.
1- Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, cách mạng Việt Nam đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối chiến lược,
mở ra kỷ nguyên đấu tranh cho độc lập, tự do và thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ nhất
trong lịch sử dân tộc. Gắn liền với những thắng lợi vĩ đại trong kỷ nguyên ấy
là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam mang sức sống
mãnh liệt và tầm vóc thời đại.
Trước hết, đó là sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, là
tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, gắn cách
mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, đặt Việt Nam vào vị trí là một trong những dân tộc tiên phong trong sự
nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
toàn thế giới. Với bản chất cách mạng và khoa học, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, là cơ sở chính trị và khoa học để Đảng
đề ra chủ trương, quyết sách đúng đắn.
Phân tích đúng thời cơ, phát huy
truyền thống yêu nước nồng nàn và niềm tin vững chắc vào tinh thần tự lực, tự
cường của dân tộc “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, với khát vọng cháy bỏng,
ý chí quyết tâm “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập”(4), Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên thắng lợi
lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á, tạo niềm tin và cơ sở cho việc hình thành con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Đảng đã đúc kết thành lý luận về chiến tranh nhân dân, về
đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lãnh đạo toàn thể dân tộc
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi, làm nên chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, mở đầu sự sụp
đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ. Với bản lĩnh, trí tuệ vô song, với tinh thần
“không có gì quý hơn độc lập, tự do”, xác lập và thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc ở miền Nam, Đảng đã huy động sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phối hợp đấu
tranh đồng bộ trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao, đập tan mọi âm
mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi từng bước, tiến tới Đại thắng mùa
Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra chặng
đường mới đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những thắng lợi vĩ đại của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, giữ vững nền độc lập,
tự do là minh chứng hùng hồn, sinh động về những đóng góp to lớn có ý nghĩa lịch
sử và sức sống mãnh liệt của nền lý luận cách mạng Việt Nam; khẳng định đây là
nền tảng khoa học cho đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng; khẳng định
vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.
2- Trong những năm tháng đất
nước đứng trước muôn vàn khó khăn, bị bao vây, cấm vận, đối mặt với khủng hoảng
kinh tế - xã hội nghiêm trọng, tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới, với
tinh thần: “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”,
công tác lý luận đã cung cấp những luận cứ khoa học sâu sắc, thuyết phục để
hình thành đường lối đổi mới, bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng, đưa đất nước bước
vào kỷ nguyên đổi mới, hội nhập và phát triển.
Điểm khởi đầu của
tiến trình đổi mới chính là sự đổi mới về nhận thức, tư duy
lý luận, mà trước hết là nhận thức, tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trước sự sụp đổ của Liên Xô và
tan rã của hệ thống nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô-viết, công tác
lý luận đã cung cấp luận cứ khoa học chắc chắn để khẳng định rằng, đây
không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, lại càng không phải là
sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà chỉ là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa
xã hội giáo điều, xơ cứng, xa dân, xa rời những nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, nhất là các nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc thực tiễn
và sự thiếu thích ứng với thay đổi thường xuyên của đời sống chính trị - xã hội.
Đó còn là hệ quả của sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị và sự
buông lỏng công tác chính trị - tư tưởng, công tác tổ chức, đặc biệt là công
tác cán bộ của đảng cầm quyền trong quá trình cải tổ. Ngay từ thời điểm vô cùng
khó khăn ấy, Đảng ta đã khẳng định rõ ràng rằng phải đổi mới tư duy về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tìm tòi bước đi, hình thức
và biện pháp thích hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội năm 1991 chỉ rõ, theo quy luật tiến hóa của lịch sử,
loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử(5).
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc
đổi mới đất nước, rút kinh nghiệm sâu sắc từ bất cập mô hình kế hoạch hóa tập
trung; kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới, công tác lý luận đã đóng vai trò rất quan trọng
trong xây dựng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011, hình
thành từng bước và hoàn thiện hệ thống lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, với những nội dung cốt
lõi, nổi bật sau đây:
Thứ nhất, xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng mang các đặc trưng vừa thể
hiện giá trị, bản sắc và khát vọng phát triển của dân tộc Việt Nam, phù hợp với
điều kiện cụ thể của đất nước, vừa mang những giá trị phổ quát, tiến bộ của
nhân loại, đó là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới(6).
Thứ hai, mô hình
chủ nghĩa xã hội Việt Nam được tạo lập dựa trên ba trụ cột:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; và nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, các phương
hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội là: Đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh toàn diện(7).
Thứ tư, luôn nắm vững,
quán triệt sâu sắc và xử lý tốt các mối quan hệ lớn phản ánh
những vấn đề mang tính quy luật biện chứng trong quá trình xây dựng, phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đó là: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới
và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các
quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực
hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội(8).
3- Cần khẳng định, đổi
mới là cả một sự nghiệp sáng tạo mang tầm vóc lịch sử và ý nghĩa cực kỳ to lớn
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, do nhân dân Việt Nam thực
hiện. Đổi mới tư duy lý luận đã đi trước một bước, làm cơ sở cho việc
hoạch định chủ trương, chính sách đổi mới trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội,
văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị,...
Từ tư duy kế hoạch hóa tập trung,
đối lập kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội, công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận đã góp phần làm sáng tỏ nhận thức rằng, kinh tế thị trường
là sản phẩm của văn minh nhân loại, có nhiều mô hình được phát triển và thích ứng
với nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, dưới chủ nghĩa tư bản cũng như
dưới chủ nghĩa xã hội; phát triển kinh tế thị trường tự nó không thể đi đến chủ
nghĩa xã hội, nhưng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội dứt khoát phải phát
triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là sự đột phá sáng tạo về lý luận của Đảng và là mô hình phát
triển kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá sâu sắc nguyên nhân và hệ
quả của tình trạng bị cô lập, cấm vận, đóng cửa, khép kín, Đảng đã đổi mới tư
duy, lãnh đạo tiến trình mở cửa đất nước và đẩy mạnh hội nhập quốc tế; kế thừa
và phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh để xây dựng hệ thống lý luận ngoại
giao Việt Nam trong thời kỳ mới làm cơ sở cho việc hoạch định, triển khai đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế; nâng cao vai trò của đất nước trong tham gia xây dựng,
định hình thể chế đa phương khu vực và toàn cầu.
Từ mô hình Nhà nước dân chủ nhân
dân, bằng nhận thức đúng đắn, nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm từ thành
công, thất bại trong thực tiễn xây dựng các mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực
trên thế giới, Đảng đã hoàn thiện cơ sở khoa học để chuyển đổi và lãnh đạo xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thực hành sáng tạo nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ
và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời, đề ra cơ chế vận hành “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” gắn với việc hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, phát huy sức mạnh
của nhân dân và đại đoàn kết toàn dân tộc.
Công tác lý luận của Đảng cũng đã
góp phần hình thành chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng; xây dựng hệ
giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người
Việt Nam trong thời kỳ mới; lấy con người là trung tâm và là chủ thể của sự
phát triển; làm cho văn hóa, con người trở thành nền tảng vững chắc, là mục
tiêu, sức mạnh nội sinh và là động lực quan trọng để phát triển nhanh và bền vững
đất nước.
Kế thừa tư tưởng, nghệ thuật quân
sự truyền thống của dân tộc, phát triển đường lối chiến tranh nhân dân trong
các cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng đã xây dựng hệ thống lý luận về bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ an ninh quốc gia, về chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự và tư duy tác
chiến trong tình hình mới, làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương kết hợp chặt
chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an
ninh; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy;
xây dựng thế trận lòng dân gắn chặt với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận
an ninh nhân dân vững chắc.
Từ thực tiễn của gần 40 năm tiến
hành công cuộc đổi mới và gần 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã xây dựng và hình
thành lý luận về đường lối đổi mới. Đó là hệ thống lý luận sâu sắc,
toàn diện về những vấn đề có tính quy luật của công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới; kết tinh trí tuệ của toàn Đảng,
toàn dân tộc trên cơ sở kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kế thừa giá trị
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa tư tưởng nhân loại. Đó là hệ thống quan
điểm khoa học, cách mạng, nhân văn, thể hiện tư duy đổi mới của Đảng về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
Nhìn lại 95 năm qua, trải qua các
chặng đường lịch sử của cách mạng Việt Nam, công tác lý luận đã phát huy trí tuệ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, xây dựng nên một hệ thống lý luận đặc sắc
Việt Nam, nổi bật là: lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của Việt Nam, lý luận về đường lối đổi mới của Việt
Nam, làm cơ sở cho những chủ trương, quyết sách hết sức quan trọng của Đảng
trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và tiến trình đổi mới, tạo nên bước chuyển vĩ đại đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình cao, tạo nền tảng vững chắc để hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước
phát triển, thu nhập cao, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Trong quá trình đó, có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm sau đây:
Thứ nhất, quán triệt
sâu sắc sứ mệnh và mục tiêu của công tác lý luận là cung cấp luận cứ khoa học
cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, quyết sách chiến lược của Đảng,
phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, công cuộc đổi mới, xây dựng,
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, nắm vững nguyên tắc
“ổn định để phát triển và phát triển để ổn định”; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa
kiên định và đổi mới; giữa kế thừa và phát triển; kết hợp nhuần nhuyễn giữa
nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, giữa nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn với hoạch định, triển khai đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, tạo môi trường
nghiên cứu dân chủ, khuyến khích đổi mới sáng tạo, trao đổi và tranh luận trên
tinh thần khoa học, phát huy trí tuệ tập thể của đội ngũ nhà nghiên cứu lý luận,
nhà hoạch định chính sách; chủ động, tích cực mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu
chọn lọc tinh hoa tri thức nhân loại phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực
Ban Bí thư cùng các đại biểu tham dự Hội thảo quốc gia: “Công tác lý luận của Đảng
và những định hướng nghiên cứu quan trọng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”
do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, Hội đồng Lý luận Trung ương tổ chức _Ảnh:
Tư liệu
Định hướng nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Bên cạnh những thành tựu rất to lớn
đã đạt được, cũng cần thẳng thắn thừa nhận rằng, công tác lý luận của Đảng vẫn
còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số vấn đề mà Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày
9-10-2014, của Bộ Chính trị, về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến
năm 2030 đã chỉ ra đến nay vẫn còn tồn tại. Văn kiện Đại hội XIII cũng thẳng thắn
nêu: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức,
thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được
làm sáng tỏ”(9). Đặc biệt, tại Hội nghị tổng kết hoạt động nhiệm kỳ
2016 - 2021 của Hội đồng Lý luận Trung ương, đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã định hướng: “Không thể để kéo dài tình trạng còn lạc hậu của lý luận
so với sự vận động và đòi hỏi của thực tiễn. Lý luận phải vươn lên dẫn đường và
đồng hành với thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước”(10).
Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn
mình của dân tộc đặt ra nhiều yêu cầu, nhiệm vụ mới đầy khó khăn, thách thức
song cũng rất đỗi vẻ vang đối với công tác lý luận và những người làm công tác
lý luận của Đảng.
1- Cần nhận thức đầy đủ,
toàn diện, sâu sắc, công tác lý luận của Đảng từ nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn gắn với hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến công tác giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng
và tuyên truyền lý luận chính trị; công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý
luận; phát triển đội ngũ và xây dựng tổ chức bộ máy làm công tác lý luận.
Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn là cơ sở quan trọng để củng cố, bổ sung và hoàn thiện nền tảng tư tưởng của
Đảng; là điều kiện bảo đảm Đảng luôn đổi mới tư duy, linh hoạt, sáng tạo trong
đề ra quyết sách phù hợp với những chuyển biến không ngừng của thực tiễn, tránh
rơi vào bảo thủ, trì trệ hoặc xa rời thực tiễn. Là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
thực tiễn, tạo sự nhất quán trong tư duy và hành động, lý luận khoa học là công
cụ quan trọng phục vụ phân tích, đánh giá chính xác các xu thế phát triển của
thời đại, nhận diện rõ những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức; xác định
mục tiêu, xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp với bối cảnh và từng
giai đoạn phát triển của đất nước. Thông qua giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng về
lý luận chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng được trang bị tư duy biện
chứng sắc bén, bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực giải quyết hiệu quả các
tình huống thực tiễn. Công tác lý luận còn góp phần nâng cao nhận thức chính trị
của cán bộ, đảng viên và nhân dân, chủ động bảo vệ nền tảng tư tưởng, các quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai
trái, thù địch, ngăn chặn nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,
củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên sự đồng thuận của
nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2- Trên cơ sở nhận thức
đó, cần tập trung thực hiện thật tốt một số nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận cung cấp luận cứ cho việc hoạch định và triển khai những
quyết sách mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới:
Một là, nghiên cứu, tổng kết
những vấn đề lý luận, thực tiễn, những bài học kinh nghiệm lịch sử qua
100 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; tổng kết 40 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991), hình thành hệ luận cứ toàn diện phục vụ cho
việc xây dựng Cương lĩnh xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong năm 2025, cần hoàn thành
các nghiên cứu tổng kết 40 năm đổi mới, 50 năm đất nước thống nhất, 80 năm
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; tiếp tục đóng góp tích cực vào việc xây dựng dự thảo văn kiện
trình Đại hội XIV của Đảng.
Hai là, bổ sung, phát triển
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam. Làm sâu sắc hơn các trụ cột, đặc trưng của mô hình chủ nghĩa
xã hội, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và việc giải quyết các mối quan
hệ lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quan tâm tổng
kết những mô hình địa phương xã hội chủ nghĩa, văn hóa xã hội chủ nghĩa, con
người xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục nghiên cứu sự vận dụng và bổ sung, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi
mới, không ngừng hoàn thiện nền tảng tư tưởng của Đảng.
Ba là, tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận nhằm xác lập “mô hình phát triển Việt Nam” có bản sắc
riêng, với những đặc trưng nổi bật: phát triển nhanh, bao trùm và bền vững, lấy
con người làm trung tâm, vận hành trên nguyên tắc: “phát triển để ổn định, ổn định
để phát triển”, phát huy sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
đặt dưới sự lãnh đạo của toàn diện của Đảng.
Bốn là, kịp thời nắm bắt,
phân tích dự báo những vấn đề mới của thế giới ngày nay, nhất là những
chuyển đổi mang tính thời đại; những xu thế lớn của thế giới trong nửa đầu thế
kỷ XXI; sự vận động đa chiều của cục diện toàn cầu; cạnh tranh chiến lược giữa
các nước lớn và khả năng định hình một trật tự thế giới mới; mô hình xã hội
tương lai cùng biến đổi văn hóa - xã hội sâu rộng, những thay đổi của nền văn
minh nhân loại; sự khủng hoảng của các giá trị, mô hình phát triển truyền thống
của phương Tây và rút ra bài học kinh nghiệm. Nghiên cứu, chắt lọc các học thuyết,
tư tưởng phát triển hiện đại, làm sáng tỏ các giá trị, tinh hoa phát triển của
phương Đông. Nghiên cứu, tổng kết nhận thức của thế giới về chủ nghĩa xã hội hiện
thực thế kỷ XXI cùng các mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biểu trên thế giới.
Năm là, củng cố nền tảng lý
luận cho những tư duy đột phá và chuyển đổi phát triển mang
tính cách mạng trong kỷ nguyên mới. Làm rõ nội hàm, điều kiện và phương thức
xây dựng lực lượng sản xuất mới cung cấp luận cứ cho việc triển
khai các đột phá về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh,
chuyển đổi số, xác lập mô hình tăng trưởng mới, thực hiện mục tiêu tăng trưởng
hai con số… Hoàn thiện lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở trình độ cao, trọng tâm là xây dựng thể chế đột
phá, vượt trội để giải phóng mọi nguồn lực, tiềm năng phát triển; giải quyết tốt
mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế, bảo đảm kinh tế nhà nước thật sự đóng vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân thật sự là một động lực quan trọng nhất của nền
kinh tế quốc gia. Nghiên cứu, tổng kết những vấn đề lý luận, thực tiễn mới về
văn hóa, con người Việt Nam, phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tin,
ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, cùng khát vọng sáng tạo và cống hiến của mỗi
người dân Việt Nam. Hình thành lý luận toàn diện về xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị Việt Nam, khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của xây dựng
Đảng là “là đạo đức, là văn minh”, không ngừng tự đổi mới.
Tiếp tục hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kết hợp những
giá trị phổ quát của thế giới và những giá trị đặc thù của Việt Nam; chuyển mạnh
từ tư duy quản lý sang quản trị, kiến tạo phát triển, phục vụ người dân và
doanh nghiệp. Bổ sung, hoàn thiện hệ lý luận về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an
ninh quốc gia và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
3- Cùng với việc đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”,
kế thừa, phát huy truyền thống 100 năm vẻ vang và những bài học kinh nghiệm
trong công tác huấn luyện cán bộ qua các thời kỳ cách mạng, qua gần 40 năm tiến
hành công cuộc đổi mới, nhất là trong những năm gần đây, tiếp tục đẩy mạnh đổi
mới toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; xây dựng, kiện
toàn hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là hệ thống trường Đảng
trong cả nước, theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Trong
đó, phát huy vai trò của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là trung tâm
quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp, cán bộ
khoa học lý luận chính trị của toàn hệ thống chính trị, nơi hội tụ và kết tinh
tri thức lý luận chính trị của Đảng, khẳng định vị thế là ngôi trường “bản sắc,
hiện đại, hội nhập”, được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4- Chú trọng xây dựng tổ
chức bộ máy và đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu mới.
Tiếp nối trọng trách của những tổ chức tiền thân là Ban Nghiên cứu lý luận, Viện
Mác - Lê-nin, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
phát huy vai trò hết sức quan trọng của Hội đồng Lý luận Trung ương đóng góp
vào sự nghiệp phát triển lý luận của Đảng, xứng tầm là cơ quan tư vấn về các vấn
đề lý luận chính trị cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư;
nghiên cứu, tổng kết và giải đáp những vấn đề lý luận - thực tiễn mới, mở rộng
hợp tác quốc tế để chắt lọc, tiếp thu tinh hoa tri thức nhân loại; là “túi
khôn”, đồng thời là hạt nhân kết nối các nhà lý luận cả nước trong công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.
***
Trong bối cảnh tình hình thế giới,
đất nước đang đứng trước những bước ngoặt phát triển có tính cách mạng, công
tác lý luận cần thể hiện vai trò định hướng, vượt trước, cung cấp luận cứ khoa
học sâu sắc, thuyết phục cho những chủ trương, định hướng của Đảng. Việc tổng kết
10 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014, của Bộ Chính trị, về
công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 là dịp để chúng ta tiếp
tục đánh giá, làm rõ hơn những thành tựu cũng như những hạn chế trong công tác
lý luận, rút ra những bài học kinh nghiệm, xác định những nhiệm vụ trọng tâm
trong giai đoạn mới, từ đó cần xây dựng một nghị quyết mới về công tác lý luận
của Đảng, làm cơ sở cho những quyết sách chiến lược để tự hào, tự tin, tự chủ,
tự lực, tự cường đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của
dân tộc Việt Nam, vì hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn
minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
GS, TS NGUYỄN XUÂN
THẮNG
Ủy viên Bộ Chính trị,
Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, phụ trách công tác lý luận của Đảng
Nguồn:
tapchicongsan.org.vn
-----------------------------
(1) GS. TS. Tô Lâm: "Rạng rỡ Việt Nam", Tạp
chi Cộng sản, số 1.055 (tháng 2-2025), tr. 7 - 8
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2005, t. 6, tr. 30, 32
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2011, L 2, tr. 289
(4) Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, tr. 129 - 130
(5) Xem: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991, in trong sách Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 128 - 148
(6), (7) Xem: Cương lĩnh xây dụng đất mước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bô sung, phát triền năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr. 63 - 90, 63 - 90
(8) Văn kiện Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 97 - 98
(9) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Sđd,
t. 1, tr. 90 - 91
(10) Xem: GS. TS. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 277