Phát triển khoa học công nghệ Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số
Những năm gần đây, nhân lực khoa học, công nghệ (KHCN) của Việt Nam đã có bước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhân lực KHCN vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, việc đánh giá thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất những giải pháp “đúng và trúng” cho phát triển nhân lực KHCN ở Việt Nam để tạo sức mạnh tổng thể trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc có vai trò quan trọng.
Thực trạng phát triển nhân lực khoa học, công nghệ ở Việt Nam
Năm 2023, Việt Nam có sự bùng nổ, vươn lên mạnh mẽ về lĩnh vực KHCN, nhiều
nhà khoa khoa học được vinh danh ở các giải thưởng, bảng xếp hạng lớn.
“Research.com, cổng thông tin điện tử uy tín dành cho các nhà khoa học thế giới
công bố xếp hạng ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc trên thế giới. Trong số 7
nhà khoa học đang làm việc tại Việt Nam có tên, 5 người trong nước và 2 người ở
nước ngoài”(1).
“Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, hiện cả nước có 167.746 người
tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển. Trong đó, lượng người tham gia
hoạt động nghiên cứu và phát triển trong khu vực nhà nước là 141.084 người
(chiếm 84,1%), khu vực ngoài nhà nước: 23.183 người (13,8%), khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài: 3.479 người (2,1%). Đặc biệt, số lượng có trình độ tiến sĩ:
14.376 người, thạc sĩ: 51.128 người, đại học: 60.719 người…”(2). Số
cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian FTE (Full Time Equivalent) của
Việt Nam có 72.991 người. Trung bình 7,6 người nghiên cứu FTE trên 1 vạn dân,
đứng thứ 4, sau Singapore (69,2 người), Malaysia (23,6 người) và Thái Lan (12,1
người). Phát triển nhân lực KHCN Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nổi bật
như:
Số lượng và quy mô nhân lực KHCN tăng nhanh. Số cán bộ nghiên
cứu có trình độ trên đại học chiếm tỷ lệ cao. Năm 2020, nhân lực có trình độ
đại học, cao đẳng chiếm khoảng 1,5 triệu người, trong đó giáo sư, phó giáo sư
khoảng 2.000 người, hơn 14.000 tiến sĩ, hơn 11.000 thạc sĩ. Số cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực KHCN hơn 34.000 người, hơn 42.000 cán bộ giảng dạy trong các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và hàng vạn cán bộ KHCN làm
việc trong các ngành, lĩnh vực kinh tế khác.
Các nhà khoa học hướng
dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học tại Khoa Công nghệ dược, Trường Đại học Dược
Hà Nội_Ảnh: TTXVN
Việt Nam có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo tiền đề hình thành
một số lĩnh vực KHCN đa ngành mới, như vũ trụ, y sinh, nano, hạt nhân; một số
lĩnh vực khoa học tự nhiên, như: toán học, vật lý lý thuyết đạt thứ hạng cao
trong khu vực ASEAN. Khoa học xã hội và nhân văn đã kịp thời cung cấp luận cứ
cho việc hoạch định đường lối, chủ trương phát triển đất nước, hoàn thiện pháp
luật, tạo tiền đề cho đổi mới tư duy kinh tế.
Chất lượng nhân lực KHCN có bước tiến bộ về trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng nghề. Trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, nhân lực
KHCN đã nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất vật liệu xây
dựng, hàng thủ công mỹ nghệ, bảo quản nông sản sau thu hoạch, góp phần đa dạng
hóa sản phẩm, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Trong lĩnh vực y dược,
nhân lực KHCN đã nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong chẩn đoán, phát hiện,
phòng và điều trị bệnh, đánh giá thực trạng một số bệnh trong cộng đồng có xu
hướng gia tăng cùng với biến động của môi trường, khí hậu. Trong nông nghiệp,
nhân lực KHCN nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng
cao, một số kỹ thuật tiên tiến đã được chuyển giao tới các địa bàn.
Việt Nam có những bước tiến bộ đáng kể trong phát triển nhân lực KHCN so
với các nước thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, nhìn ở góc độ đột phá nhân
lực chất lượng cao, nhân lực KHCN Việt Nam còn nhiều yếu kém, bất cập.
Một là, số lượng nhân lực KHCN của Việt Nam chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với yêu cầu
(17,5% lao động xã hội), trong khi còn khoảng 2,2% tổng số lao động có trình độ
chưa có việc làm hoặc việc làm chưa ổn định. Mức độ phát triển về quy mô chậm,
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành KHCN trong giai đoạn chuyển đổi số.
Nhân lực KHCN có trình độ tiến sĩ tuy đông về số lượng nhưng về trình độ
vẫn chưa đáp ứng được chuẩn quốc tế, chưa sử dụng thành thạo tiếng Anh hoặc
ngoại ngữ chuyên ngành. Hơn 10.000 người có học vị tiến sĩ, nhưng chỉ có khoảng
30% cán bộ có thể sử dụng thành thạo ngoại ngữ và có thể trao đổi chuyên môn
với các tổ chức quốc tế. Trong lĩnh vực R&D, đổi mới công nghệ, Việt Nam
chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Mặc dù,
các nhà khoa học Việt Nam đã nỗ lực phát triển các nghiên cứu theo định hướng
ứng dụng, tạo được nhiều công nghệ mới, sản phẩm mới, nhưng vẫn còn manh mún,
nhỏ lẻ. Nhân lực cho R&D công nghệ mỏng, nhất là những lĩnh vực công nghệ
mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như kỹ thuật số và công nghệ thông
tin, tự động hóa, vật lý và khoa học vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học.
Quá trình nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ
yếu.
Số lượng cán bộ KHCN có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ được nâng lên rõ rệt,
nhưng vẫn thiếu đội ngũ kế cận, nhất là trong các lĩnh vực KHCN ưu tiên, lĩnh
vực công nghệ cao. Dự báo, năm 2025 sẽ thiếu hơn 500.000 nhân lực công nghệ
thông tin, chiếm hơn 78% tổng số nhân lực công nghệ thông tin thị trường cần.
Lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) - công nghệ được xác định là “trái tim” của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và là điều kiện không thể thiếu để đưa Việt
Nam trở thành quốc gia số - cũng đang thiếu hụt về số lượng. Xu thế biến động
theo chiều hướng bất lợi khi số lượng các nhà khoa học giỏi ngày càng giảm do
đến tuổi về hưu trong khi đội ngũ kế cận lại thiếu hụt nghiêm trọng.
Hai là, chất lượng nhân lực KHCN thấp, đặc biệt là thiếu các
chuyên gia đầu ngành, các tổng công trình sư, các tập thể khoa học mạnh. Không
chỉ thiếu hụt về số lượng, vấn đề chất lượng nhân lực công nghệ cao cũng là
thách thức lớn trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Chất lượng đội
ngũ cán bộ KHCN hạn chế, bất cập, thiếu các nhà khoa học giỏi, đầu ngành,
chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ cao. Nhân lực KHCN phân bố không đều,
một bộ phận sử dụng nhiều thời gian cho công tác quản lý; tinh thần hợp tác
nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm yếu, khó hình thành các nhóm nghiên cứu
mạnh và nhóm nghiên cứu liên ngành hoạt động lâu dài, bền vững.
Việt Nam thiếu nhân lực KHCN ở các ngành mũi nhọn, có tính chất quyết định
như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Cấp bằng độc quyền sáng chế của
cán bộ KHCN Việt Nam thấp. Theo thống kê của Tập đoàn Công nghệ CMC, nhu
cầu về nhân lực số rất cao, nhưng các trường đại học mới đáp ứng khoảng 25% nhu
cầu, chất lượng chỉ đáp ứng 30% yêu cầu. Năm 2021, bất chấp dịch COVID-19, nhu
cầu nhân lực của Samsung vẫn rất cao. Thực tế này cho thấy, chất lượng nhân lực
số của Việt Nam còn thiếu và yếu.
Ba là, cơ cấu nhân lực KHCN mất cân đối theo trình độ, vùng, miền. Cơ cấu nhân lực
KHCN chưa hợp lý. Tỷ lệ nhân lực gián tiếp trên tổng số nhân lực KHCN quá cao.
Nhân lực trong lĩnh vực KHCN phần đông tập trung ở khu vực nhà nước, thiếu vắng
trong doanh nghiệp. Nhân lực công nghệ cao chủ yếu ở một số ngành như công nghệ
thông tin, công nghiệp sản xuất thiết bị tự động hóa. Nhân lực KHCN thường tập
trung số lượng lớn ở các thành phố lớn, như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà
Nẵng..., trong khi ở các tỉnh khó khăn chiếm tỷ lệ thấp, nhất là các vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo, dân tộc thiểu số và miền núi. Nhiều địa phương
thiếu cả về số lượng và chất lượng đội ngũ nhà khoa học. Trên 90% số tổ chức
KHCN có số nhân lực dưới 30 người, trong đó nhiều tổ chức có số nhân lực dưới
10 người.
Bốn là, hiệu quả hoạt động của nhân lực KHCN chưa cao, chưa thực sự đóng góp hữu
hiệu để nâng cao năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Một bộ phận không nhỏ nhân lực KHCN trình
độ cao không trực tiếp làm nghiên cứu, do cơ chế bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản
lý đang chủ yếu dựa trên trình độ chuyên môn cao (học hàm, học vị). Đội ngũ cán
bộ KHCN phân tán, một bộ phận không nhỏ chưa tận tâm với nghiên cứu khoa học.
Việt Nam có nguy cơ thiếu hụt nhà khoa học giỏi, nhà khoa học đầu ngành.
Những hạn chế trong phát triển nhân lực KHCN Việt Nam do một số nguyên nhân
cơ bản sau:
Thứ nhất, nhận thức của đội ngũ các nhà nghiên cứu khoa học, các
nhà quản lý chưa cao. Đội ngũ cán bộ KHCN tuy có tăng về số lượng nhưng chất
lượng chưa đáp ứng yêu cầu. Thiếu tập thể khoa học mạnh, các chuyên gia đầu
ngành có khả năng dẫn dắt các hướng nghiên cứu mới và chỉ đạo triển khai
các nhiệm vụ quốc gia ở trình độ quốc tế. Hiệu quả hoạt động của các tổ chức
KHCN công lập chưa cao. Hợp tác quốc tế chưa đi vào chiều sâu, thiếu trọng tâm,
chưa chú trọng đến chuyển giao, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến.
Thứ hai, chưa có cơ chế, chính sách đột phá để nhân lực KHCN trở thành nguồn lực cốt
yếu cho sự phát triển. Chưa khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp thực hiện đổi mới, chuyển giao, nâng cao trình độ công nghệ. Hoạt
động kết nối nghiên cứu giữa các nhà khoa học với thị trường và doanh nghiệp
nhìn chung còn yếu, thiếu thông tin. Vai trò của các tổ chức trung gian, tư vấn
chuyển giao công nghệ mờ nhạt, nhất là các tổ chức có chức năng xúc tiến, định
giá công nghệ.
Các tổ chức KHCN công lập, kể cả các tổ chức KHCN có tiềm lực mạnh ít có cơ
hội tuyển dụng được nguồn nhân lực trẻ, có trình độ khá, giỏi, chuyên tâm
nghiên cứu khoa học để đào tạo, kế cận do mức lương và chính sách đãi ngộ của
Nhà nước vẫn thấp so với các công ty, các tập đoàn, đặc biệt là các tổ chức
quốc tế, các công ty liên doanh.
Thứ ba, đầu tư cho KHCN còn hạn chế. Tỷ lệ chi cho KHCN trên GDP chưa tương xứng
với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước. Tỷ trọng chi cho hoạt động KHCN
chưa thực sự hợp lý, chi đầu tư còn thấp, chi thường xuyên cao. Mức chi cho một
số nhiệm vụ KHCN phục vụ thiết thực cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội chưa tới ngưỡng. Đầu tư công cho KHCN chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra.
Đầu tư cho KHCN từ ngân sách nhà nước mặc dù đã được tăng, bình quân mỗi
năm tăng 16%, đạt 2% tổng chi ngân sách nhà nước nhưng vẫn là một con số quá
thấp so với nhu cầu của hoạt động KHCN. Các nước tiên tiến đầu tư cho phát
triển KHCN, đặc biệt là nghiên cứu các sản phẩm khoa học ứng dụng luôn đạt từ 3
- 5% tổng chi ngân sách. Sự chênh lệch về vốn đầu tư cho KHCN là thách thức lớn
cho phát triển nhân lực KHCN Việt Nam.
Thứ tư, chưa tạo điều kiện và khuyến khích được các nhà khoa học và các doanh
nghiệp nghiên cứu, ứng dụng KHCN cũng như chưa tạo ra được thị trường KHCN.
Hoạt động KHCN chưa tương xứng với tiềm năng. KHCN và đổi mới sáng tạo chưa
thực sự trở thành động lực quan trọng để nâng cao năng suất lao động, khả năng
cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Chưa hỗ trợ, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp đầu tư thực hiện đổi mới, chuyển giao, nâng cao trình độ công
nghệ; chưa tạo tính tự chủ cho các tổ chức nghiên cứu khoa học.
Thứ năm, thiếu chuyên gia giỏi đầu ngành, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp
thấp, còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực Đông Nam Á. Trừ một số lĩnh vực
có tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh, như công nghệ thông tin, viễn thông, dầu
khí, hàng không, tài chính ngân hàng, nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực sản
xuất vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới.
Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh
nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các viện
nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn.
Lực lượng cán bộ KHCN thiếu các chuyên gia giỏi đầu ngành trong nhiều lĩnh
vực, nhất là những lĩnh vực mũi nhọn. Chưa tạo được phong trào đổi mới sáng tạo
mạnh mẽ, KHCN chưa thực sự gắn chặt với thị trường. Các công trình nghiên cứu
tầm cỡ quốc tế, có đóng góp đột phá đối với phát triển kinh tế - xã hội còn ít.
KHCN chưa thực sự trở thành động lực và nền tảng cho phát triển kinh tế, xã
hội, cho tăng trưởng, cơ cấu lại kinh tế và tăng năng suất lao động xã hội.
Nhiều kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và địa phương chưa dựa trên cơ sở
khoa học chuyên sâu, dẫn đến đầu tư dàn trải, thiếu tính khả thi. Một số nhiệm
vụ nghiên cứu chưa bám sát yêu cầu sản xuất và đời sống.
Nghiên cứu khoa học
tại Viện Công nghệ Nano, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh_Ảnh: TTXVN
Một số giải pháp phát triển nhân lực khoa học, công nghệ ở Việt Nam
Để tạo bước đột phá trong phát triển nhân lực KHCN đáp ứng yêu cầu trong
bối cảnh chuyển đổi số và đáp ứng chỉ tiêu 10 nhân lực KHCN trên một vạn dân
năm 2025, tăng lên 12 nhân lực KHCN trên một vạn dân năm 2030, cần thực hiện
đồng bộ, toàn diện những giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới nhận thức và tăng cường công tác giáo dục - đào tạo, nâng cao
chất lượng nhân lực KHCN. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, giáo dục -
đào tạo cần thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi
số, do vậy phải đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng
cao. Cơ cấu đào tạo cần chú trọng theo hướng phù hợp với việc áp dụng mô hình
kinh tế số. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú
trong đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân
lực quản lý, quản trị doanh nghiệp. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học
có trình độ cao thuộc các lĩnh vực KHCN ưu tiên. Bên cạnh đó, cần đổi mới mạnh
mẽ tư duy, phương pháp quản lý, chấp nhận rủi ro để thúc đẩy triển khai ứng
dụng công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới dựa trên KHCN.
Hoàn thiện kế hoạch đào tạo cán bộ KHCN trẻ để tạo ra lượng lao động có
năng lực và phẩm chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quá trình chuyển đổi
số. Nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học ở các trường đại học,
viện nghiên cứu nhằm đáp ứng kịp thời lực lượng lao động có trình độ KHCN
cao. Đổi mới chương trình đào tạo cho đối tượng nhân lực KHCN trong các
trường cao đẳng, đại học hướng tới đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Tạo
kênh kết nối giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp để thống nhất nhu cầu về
nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo của
doanh nghiệp vì khu vực doanh nghiệp là đơn vị trực tiếp tuyển dụng, thu
hút nguồn nhân lực KHCN và phát triển chuyên môn, năng lực cho các học viên.
Khuyến khích sinh viên theo đuổi ngành nghề, lĩnh vực có liên quan chặt chẽ đến
KHCN thông qua hỗ trợ tài chính, kinh phí đào tạo, học bổng, tìm kiếm việc làm.
Đầu tư cho nghiên cứu khoa học ở các trường đại học đóng vai trò then
chốt trong phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo, giúp tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, sẵn sàng làm việc cho quá trình chuyển đổi số đang diễn ra trên toàn
thế giới. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực KHCN là giải pháp quan trọng có ý
nghĩa quyết định đến việc phát triển đội ngũ nhân lực KHCN Việt Nam. Đây là
giải pháp hiệu quả nhất, mang tính lâu dài mà hầu hết các quốc gia trên thế
giới đang ưu tiên thực hiện.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi nhằm phát
triển nhân lực KHCN trình độ cao. Đầu tư xây dựng đội ngũ nhân lực KHCN trình
độ cao, đội ngũ nhà khoa học đầu ngành, từng bước nâng cao tiêu chuẩn nhà khoa
học đầu ngành tiệm cận với tiêu chuẩn ở các nước phát triển. Tiếp tục chương
trình tuyển chọn, gửi đi đào tạo nhân lực KHCN trình độ cao thuộc các lĩnh vực
ưu tiên, trọng điểm tới các nước có nền KHCN tiên tiến. Khuyến khích, hỗ trợ
các trường đại học trong nước liên kết với các trường đại học nước ngoài để đào
tạo nhân lực KHCN tại Việt Nam. Có chính sách ưu đãi thuế thu nhập cá nhân đối
với đội ngũ nhân lực KHCN tham gia thực hiện các nhiệm vụ KHCN cấp quốc gia.
Xác định chiến lược tạo nguồn cán bộ KHCN phải gắn liền với yêu cầu đẩy
mạnh hoạt động đổi mới sáng tạo, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Chú trọng các ngành, lĩnh vực mang tính
liên ngành, công nghệ sinh học, công nghệ kỹ thuật số, tự động hóa và đào tạo
kỹ năng mang tính toàn cầu. Kế hoạch phát triển nhân lực KHCN phải gắn kết chặt
chẽ với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng mối quan hệ ổn định,
liên kết giữa doanh nghiệp với nhà khoa học để nâng cao tính ứng dụng của các
sản phẩm KHCN.
Thứ ba, hoàn thiện công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng phát triển nhân
lực KHCN. Đây là giải pháp quyết định, chi phối các giải
phát triển nguồn nhân lực KHCN, bởi công tác xây dựng quy hoạch, chiến lược tác
động trực tiếp, tạo nên “nội lực” để nguồn nhân lực KHCN phát triển. Thực hiện
tốt công tác quy hoạch phát triển không chỉ bảo đảm cho nguồn nhân lực KHCN có
sự phát triển toàn diện về số lượng, chất lượng, cơ cấu mà còn tạo hành lang
pháp lý vững chắc để nguồn nhân lực KHCN yên tâm công tác, cống hiến.
Công tác quy hoạch đội ngũ viên chức KHCN cần gắn liền với đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn, chuyên gia đầu ngành, chuyên môn hoá ở các lĩnh vực. Hoạt
động quy hoạch nhân lực KHCN phải bao quát được cơ cấu nhân lực KHCN theo các
chuyên ngành KHCN với các chức danh đảm nhiệm, cơ cấu cụ thể: độ tuổi, trình độ
học vấn, nhóm ngành hoạt động, chức danh chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu giới… Ưu
tiên đào tạo các chuyên gia, viên chức khoa học và công nghệ có trình độ cao.
Thứ tư, tăng cường thu hút nhân lực KHCN và đổi mới sáng tạo, các chuyên gia
hàng đầu từ bên ngoài. Cùng với thu hút, trọng dụng nhân tài trong nước, cần
xây dựng cơ chế, chính sách thu hút nhân lực KHCN và đổi mới sáng tạo, các
chuyên gia hàng đầu quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tạo điều
kiện thuận lợi về cơ chế, cơ sở vật chất để thu hút các nhà khoa học trên thế
giới, các tổ chức nghiên cứu khoa học đến liên kết, hợp tác trong nghiên cứu
khoa học, đào tạo nhân tài, chuyển giao công nghệ. Thu hút qua đãi ngộ các nhà
khoa học trình độ cao đã trở thành giải pháp được nhiều quốc gia trên thế giới
sử dụng để nâng cao năng lực đội ngũ KHCN quốc gia. Tuy nhiên, trong bối cảnh
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số thì việc thu hút trí thức
KHCN giỏi không phải là điều đơn giản.
Tạo lập môi trường, điều kiện làm việc tốt để giữ chân nhân tài với chú
trọng trang bị cơ sở vật chất, phòng nghiên cứu, thực hành, thư viện hiện đại…
góp phần quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực trẻ, trí tuệ cao đáp ứng nhu cầu
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có chính sách đưa người Việt Nam vào làm
việc tại các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp khởi nghiệp ở nước ngoài,
sau đó trở về nước làm việc. Tạo thuận lợi cho các giảng viên, cán bộ nghiên
cứu thường xuyên tham gia vào hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo tại doanh
nghiệp.
Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những cán bộ KHCN có cống hiến to
lớn, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ chế
trả lương cần gắn với kết quả, hiệu quả thực hiện công việc, nhiệm vụ được giao
đối với viên chức KHCN. Đây là yếu tố quan trọng không chỉ thu hút, giữ chân
được nhân tài, chuyên gia KHCN đầu ngành mà còn giúp giữ gìn phẩm chất, đạo đức
nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ làm KHCN. Thành lập quỹ học bổng cho các nhà
khoa học trẻ giúp nhân lực KHCN có cơ hội nghiên cứu và ứng dụng các kết
quả nghiên cứu một cách hiệu quả.
Thứ năm, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và đẩy mạnh hợp tác quốc tế
trong phát triển nhân lực KHCN. Việt Nam hiện đang là thành
viên của gần 100 tổ chức quốc tế về KHCN, có quan hệ về hợp tác KHCN với hơn 90
quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Để hợp tác quốc tế trong phát triển
nhân lực KHCN đạt hiệu quả cần đa dạng hóa, đa phương hoá đối tác và hình
thức hợp tác, lựa chọn đối tác chiến lược, gắn kết giữa hợp tác quốc tế về KHCN
với hợp tác quốc tế về kinh tế. Bên cạnh các mối quan hệ hợp tác truyền thống
với Nga, các nước Đông Âu..., Việt Nam tiếp tục mở rộng, thiết lập và phát
triển các mối quan hệ hợp tác mới với các nước Nam Mỹ, châu Phi, Trung Đông.
Năm 2023, Việt Nam ghi nhận sự hợp tác với nhiều nhà khoa học, doanh nhân hàng
đầu trong lĩnh vực AI toàn cầu, như giáo sư Andrew Ng của Landing AI, CEO
Jensen Huang của Nvidia…
Cùng với đó, ban hành chính sách thu hút chuyên gia là người Việt Nam ở
nước ngoài và chuyên gia nước ngoài có trình độ cao đến Việt Nam tham gia
nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn, đảm đương các chức vụ quản lý nghiên cứu KHCN.
Tăng cường tối đa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KHCN trong
hợp tác quốc tế.
Phát triển nhân lực KHCN là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng. Trong bối cảnh
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và phát triển kinh tế số, chuyển đổi
số, việc phát triển nhân lực KHCN đòi hỏi các giải pháp khoa học và thực tế,
cần phải được thực hiện đồng bộ, có hệ thống. Các giải pháp phải mang tính toàn
diện từ tạo nguồn, quy hoạch, bồi dưỡng, sử dụng, trọng dụng nhân lực KHCN./.
--------------------------
(1) Điểm nhấn nổi bật của khoa học - công nghệ Việt Nam 2023, Báo Nhân dân
điện tử, ngày 31-12-2023,
https://nhandan.vn/diem-nhan-noi-bat-cua-khoa-hoc-cong-nghe-viet-nam-2023-post790074.html
(2) Quỳnh Nga, Nhân lực khoa học và công nghệ: Đổi mới lượng và chất, Báo
Công Thương điện tử, ngày 21-3-2018,
https://congthuong.vn/nhan-luc-khoa-hoc-va-cong-nghe-doi-moi-luong-va-chat-100918.html&link=1
Phạm Quang Chính - PGS, TS Phạm Thị Thanh Bình (Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam - Khoa Kinh tế, Đại học Mở Hà Nội)
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
(03/4/2025)