Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc - Từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến bài học lịch sử hiện nay
Kế thừa truyền thống đoàn kết trong lịch sử để làm nên sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh
Lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta là lịch sử của tinh thần yêu nước gắn liền với
ý thức cộng đồng, ý thức cố kết và đoàn kết dân tộc. Tinh thần, ý thức ấy đã
tạo nên sức mạnh to lớn của cả một dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai định
họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Đối với mỗi người dân Việt
Nam yêu nước, giá trị nhân nghĩa, thủy chung và đoàn kết luôn luôn là sức mạnh
tinh thần bền bỉ và quý báu nhất; từ lâu đã trở thành phép ứng xử và tư duy
chính trị giản dị mà sâu sắc: Tình làng,
nghĩa nước; nước mất thì nhà tan; giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Tất cả đã
ghi đậm giấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành mỗi quan hệ ba
tầng chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia (nhà - làng - nước), trở thành sợi
dây liên kết các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội Việt Nam truyền thống và
hiện đại.
Truyền thống đoàn kết và
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đã được các anh hùng dân tộc ở các thời
kỳ lịch sử khác nhau phát huy cao độ. Từ thời đại Bà Trưng, Bà Triệu… đến Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đã đúc kết và nâng lên thành phép
đánh giặc giữ nước, “tập hợp bốn phương manh lệ”, “trên giới đồng lòng, cả nước
chung sức”, “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng
sỹ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, “khoan thư sức dân làm
kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”… Truyền thống
ấy đã được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước trong
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tiếp tay
cho ngoại bang; tiêu biểu nhất là cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh,…
Tinh thần cố kết dân tộc
và phát huy sức dân đã được thời đại Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển và nâng
lên tầm cao mới. Chủ tịch Hồ chí Minh cũng là người sớm hấp thu truyền thống
yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết dân tộc của cha ông. Người khẳng định: “từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Truyền thống quý báu đó đã kết
dệt nên bản lĩnh văn hóa Việt Nam kiên cường và bất khuất. Trong chiến tranh,
đó là thế hệ những con người có tinh thần yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hy sinh
vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đó
là những người có lòng nồng nàn yêu nước, có tinh thần vượt qua khó khăn, học
tập và lao động, làm giàu cho bản thân và cống hiến cho xã hội. Vì độc lập tự
do của Tổ quốc và hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc - yếu tố quyết định thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945
Cách mạng tháng Tám năm
1945 là một cuộc vận động cách mạng từ trước đó của Đảng ta và Hồ Chí Minh,
được đánh dấu từ Hội nghị lần thứ 6 (11-1939), đặc biệt là Hội nghị lần thứ 8
(5-1941) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh trực tiếp chủ trì; các
hội nghị đã đề ra chủ trương chuyển hướng
chiến lược cách mạng. Dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, quyền lợi của tất
cả các giai cấp bị chiếm đoạt dã man, vận mệnh dân tộc nguy nan không lúc nào
bằng. Pháp - Nhật không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của toàn dân
tộc. Do đó, cuộc đấu tranh của nhân dân ta lúc này không phải đồng thời giải
quyết cả hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến như trước nữa, mà là cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc nhằm giải quyết một vấn đề cần kíp là đánh đổ đế
quốc và tay sai, giành độc lập, tự do. Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật sẽ thành
lập một nhà nước dân tộc theo thể chế Cộng hòa - nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Nhà nước đó không thuộc quyền riêng của công nông mà là của chung cả dân
tộc. Đây là một quyết sách đúng đắn, một sự chuyển hướng chiến lược cách mạng
kịp thời trong tư tưởng chính trị của Đảng ta trên nền tảng Chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó Đảng đã tập hợp được đông đảo quần chúng
nhân dân đứng về phía mình, làm cuộc cách mạng toàn dân, đem lại thắng lợi cho
toàn dân tộc. Dựa trên sự chuyển hướng chiến lược này, Đảng và Hồ Chí Minh đã
chuyển hướng về xây dựng lực lượng, về phương thức và nghệ thuật khởi nghĩa,
hướng cuộc cách mạng vào cuộc khởi nghĩa toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân.
Ngày 6/6/1941, Hồ Chí Minh
đã trân trọng gửi thư kêu gọi thống thiết các bậc phụ huynh, các hiền sĩ, chí
sĩ, các bậc phú hào yêu nước, các bạn công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ,
công chức, tiểu thương, hãy đoàn kết lại để đánh đổ bọn đế quốc và tay sai.
Trong thư có đoạn viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết
thảy. Chúng ta phải đoàn kết đánh bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống
nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng. Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc
chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai ghách vác một phần trách nhiệm:
người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có
tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì
đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề” (1).
Cùng với việc chuẩn bị lực
lượng, Đảng và Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi có sức lôi cuốn mạnh mẽ lực lượng yêu nước trong toàn dân, đó là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là
Việt Minh. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được tổ chức vào các hội cứu quốc.
Đối với các bậc kỳ hào, địa chủ, tư sản, Đảng đã có sự đánh giá khách quan về
năng lực phản đế, tinh thần dân tộc của họ, tổ chức họ vào Việt Nam cứu quốc
hội. Đây có thể nói là một sách lược tài tình của Đảng và Hồ Chí Minh, nó đồng
thời xác định đúng mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, xác định
đúng kẻ thù, xác định đúng nhiệm vụ cách mạng để từ đó huy động được toàn dân tham gia vào
cao trào kháng chiến rộng lớn.
“Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”. Đó là lời hiệu triệu đầy sức mạnh và thiêng liêng của Hồ Chí
Minh trong Thư kêu gọi đồng bào và chiến
sỹ cả nước được phát ra rừ Đại hội quốc dân, Tân Trào ngày 16/8/1945.
Hưởng ứng lời kêu gọi của
Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề
đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 14/8/1945, các đơn vị giải phóng
quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật trên địa bàn các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn,
Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái…và hỗ trợ cho quần chúng tiến hành khởi nghĩa
giàng chính quyền. Ngày 18-8-1945, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc
Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khách Hòa đã nổi dậy giành
chính quyền ở tỉnh lị.
Đặc biệt là thắng lợi của
cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội ngày 19/8. Sự kiện này có ý nghĩa
quyết định đến thắng lợi của tổng khởi nghĩa trong cả nước; cổ vũ mạnh mẽ nhân
dân khắp nơi nổi dậy giành chính quyền. Ngày 23/8/1945, khởi nghĩa giành chính
quyền ở Huế, ngày 25/8/1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn. Sức mạnh
của nhân dân đã làm nên chiến thắng kỳ diệu, chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14
đến ngày 28/8/1945) cuộc Tổng khởi nghĩa đã diễn ra toàn thắng trên cả nước,
lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của dân tộc, chính quyền đã về tay nhân
dân.
Thắng lợi của cách mạng tháng
Tám năm 1945 có một ý nghĩa lịch nghĩa lịch sử vô cùng to lớn cho dân tộc Việt
Nam và phong trào cách mạng trên toàn thế giới. Ý nghĩa trọng đại đó đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc”.
Cách mạng tháng Tám thành
công, ngày 2/9/1945, trên Quảng trường Ba Đình lịch sử Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tuyên bố nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa ra đời. Bản Tuyên ngôn chỉ rõ: “… Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Bài học lớn từ thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là việc phát huy sức mạnh toàn dân trên nền
tảng khối liên minh công - nông. Đó là thắng lợi của cuộc đấu tranh anh dũng
của hơn 20 triệu người Việt Nam yêu nước, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là thắng lợi của
nghệ thuật phát huy sức mạnh nhân dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc, đã được
ông cha ta sử dụng trước đó và đến thời đại Hồ Chí Minh, đã được kế thừa và
phát triển lên một tầm cao mới.
Ý nghĩa lịch sử của bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc trong cách mạng tháng Tám năm 1945 đối với sự nghiệp cách mạng xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay
Thực tiễn cách mạng Việt
Nam từ năm 1930 đến nay đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ
đại của tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tiêu biểu nhất
là tư tưởng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết dân
tộc từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
và xây dựng CNXH. Sức mạnh đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả
những người Việt Nam yêu nước và biến thành hành động cách mạng của hàng triệu,
hàng triệu con người trong thời đại Hồ Chí Minh.
Lịch sử cách mạng Việt Nam
80 năm qua cũng cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh được quán triệt và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát
triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi; lúc nào, nơi nào xa rời tư tưởng đó thì
khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất nặng nề. Và đây sẽ mãi là bài
học lớn cho Đảng ta trước mọi nhiệm vụ của lịch sử.
Đất nước độc lập thống
nhất bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và bước vào thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với
tình hình mới. Đại đoàn kết dân tộc luôn được Đảng coi là một trong những vấn
đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trải qua các kỳ Đại hội, đặc biệt là các kỳ Đại hội từ khi Đảng ta đổi mới đến
nay, Đảng ta luôn khẳng định đoàn kết dân tộc là bài học lớn có ý nghĩa lịch sử
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất
sức mạnh đoàn kết đó, đặt lợi ích chung của dân tộc, của đất nước và của nhân
dân lên hàng đầu; lấy đó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương chính sách phát
triển kinh tế - xã hội gắn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mạnh giàu.
Trong thời đại
ngày nay, khi đất nước đang vươn mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc cũng đứng trước những thử
thách khó khăn. Kẻ thù không ngừng sử dụng chiêu bài chia rẽ, gây mất đoàn kết
trong đời sống nhân dân. Với chiến lược “Diễn biến hào bình”, “Bạo loạn lật
đổ”, âm mưu nguy hiểm của kẻ thù là phá vỡ sức mạnh cố kết cộng đồng, tạo sự
nghi ngờ, gây chia rẽ nội bộ trong lòng xã hội, để đi đến tự diễn biến làm thất
bại thành quả cách mạng mà chúng ta đã giành được. Bài học từ sự đổ vỡ của các
nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô là rất rõ. Sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay của nước ta thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào
việc giải quyết được vấn đề này. Một khi Đảng cố kết được sức mạnh của mọi tầng
lớp nhân dân, dương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh thì chắc chắn chúng ta sẽ giành thắng lợi, dù kẻ thù có nguy hiểm đến đâu.
Đó là bài học nhất quán thắng lợi của dân tộc ta trong mọi chặng đường cách
mạng.
-------------------------------
(1);
(2); (4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2002, tập 3, 198;554;557.
(3).
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, tập 6, 159.
GVC,ThS. Nguyễn Văn Điều
Trường Chính trị tỉnh Nghệ An