image banner
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
“Chọn chính nghĩa, không chọn bên”: Chính sách đối ngoại nhất quán, đúng đắn của Việt Nam

“Chọn chính nghĩa, không chọn bên” trong quan hệ quốc tế là quan điểm nhất quán, lập trường trước sau như một của Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên đưa ra các luận điệu xuyên tạc, kích động, hòng chống phá đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Việc nhận diện, đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động luôn là vấn đề cấp bách hiện nay.

NHẬN DIỆN ÂM MƯU XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG

Là một quốc gia phải trải qua nhiều thời kỳ đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, dân tộc Việt Nam luôn thấu hiểu giá trị của hòa bình, độc lập, luôn mong muốn được sống trong hòa bình, độc lập. Trong quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(1).

Tại các diễn đàn, hội nghị quốc tế, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: Việt Nam chọn chính nghĩa, không chọn bên trong quan hệ quốc tế. Theo đó, giữa độc lập và phụ thuộc, Việt Nam chọn độc lập; giữa thương lượng và đối đầu, Việt Nam chọn thương lượng; giữa đối thoại và xung đột, Việt Nam chọn đối thoại; giữa hòa bình và chiến tranh, Việt Nam chọn hòa bình; giữa hợp tác và cạnh tranh, Việt Nam chọn hợp tác và cạnh tranh thì phải lành mạnh, bình đẳng, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau(2).

Quan điểm nhất quán trên thể hiện rõ mong muốn, thiện chí của Việt Nam trong quan hệ quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, trong thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị, đã tự huyễn hoặc gắn cho mình mác “người yêu nước”, có “tâm huyết”, “trách nhiệm” với vận mệnh quốc gia - dân tộc, thường xuyên có hành động kích động, cố tình “rao giảng” các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt, hòng mưu đồ chống phá, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Một là, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang diễn ra gay gắt như hiện nay, Việt Nam vẫn thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là “tự cô lập mình”, cần phải thay đổi. Hơn nữa, “đã độc lập, tự chủ sẽ cản trở hội nhập quốc tế và ngược lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ”… Từ đó, “kêu gọi” Việt Nam phải mạnh dạn “đổi mới” đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay.

Hai là, tập trung xuyên tạc, công kích quan điểm của Việt Nam đối với những sự kiện phức tạp xảy ra trên thế giới gần đây như vấn đề xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine… Cho rằng, “Việt Nam đang phải chịu sức ép của thế lực nào đó”, vì vậy không thể thể hiện lập trường, quan điểm... Đồng thời, lợi dụng các chuyến thăm của lãnh đạo cao cấp Đảng, Nhà nước ta ra nước ngoài, viện dẫn vô căn cứ rằng Việt Nam đã “từ bỏ chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của mình”, “Việt Nam đang chọn phe”(?!)…

Từ những xảo biện trên, đưa ra những “kiến nghị”, “đề xuất”, “hiến kế” dưới danh nghĩa xuất phát từ lòng yêu nước, vì chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc để kêu gọi Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, “chọn bên” trong quan hệ quốc tế, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng và đối ngoại (?!).

Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt như hiện nay, tất cả các quốc gia, nhất là các nước chậm phát triển, trong đó có các nước ở khu vực Đông Nam Á rơi vào nguy cơ bị lôi kéo, chia rẽ, đứng trước sức ép buộc phải “chọn bên”. Những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động mặc dù không thể làm chệch hướng đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ; không thể phủ nhận bản lĩnh, trí tuệ, khát vọng hòa bình của Việt Nam, song cũng khiến một số người hoang mang, dao động, tác động tới niềm tin vào đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Việc nhận diện và đấu tranh làm thất bại mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch, phản động luôn là vấn đề cấp thiết.

KHẲNG ĐỊNH QUAN ĐIỂM “CHỌN CHÍNH NGHĨA, KHÔNG CHỌN BÊN” CỦA VIỆT NAM LÀ ĐÚNG ĐẮN, PHÙ HỢP VỚI THỰC TIỄN

Thứ nhất, trong lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc: “Bên cạnh các cuộc chiến đấu ngoan cường bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, ông cha ta luôn chú trọng bang giao hòa hiếu với các quốc gia láng giềng, tạo dựng nên những truyền thống và bản sắc riêng, rất độc đáo của ngoại giao Việt Nam: Đầy hào khí, giàu tính nhân văn, hòa hiếu, trọng lẽ phải, công lý và chính nghĩa”(3). Đồng thời, luôn nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; lấy lợi ích quốc gia - dân tộc là nguyên tắc bất biến, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam.

Anh-tin-bai

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và lãnh đạo các nước ASEAN, Timor-Leste tham dự Phiên toàn thể Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 46 _Ảnh: TTXVN

Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” càng được phát huy cao độ. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cương vị là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là người đặt nền móng và trực tiếp chỉ đạo, dẫn dắt nền ngoại giao cách mạng ngày càng phát triển. Người đã nhiều lần chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của sức mạnh nội lực, của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(4); “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”(5). Do đó: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(6).

Cùng với việc nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị với tất cả các quốc gia, dân tộc. Người đặc biệt coi trọng việc xử lý khéo léo mối quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn; luôn căn dặn phải “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp”; không chỉ “hóa giải tương khắc”, mà còn phải biết “kiến tạo tương đồng”, để “thêm bạn, bớt thù” trong quan hệ quốc tế. Phải luôn vì lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, dùng ngoại giao để đẩy lùi chiến tranh, xung đột; phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường gắn với tăng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho đất nước. Chính tư tưởng và những chỉ đạo về ngoại giao độc lập, tự chủ, mềm dẻo, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi chông gai, thử thách, giành những thắng lợi to lớn, vẻ vang.

Điều này đã được thực tiễn chứng minh, sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), khi vận mệnh dân tộc ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chính phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” và đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta vượt qua khó khăn, thử thách, lần lượt đánh bại thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập, thống nhất đất nước.

Thứ hai, đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là nhất quán, đúng đắn.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986) đến nay, chính đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đã trở thành “mặt trận tiên phong” góp phần phá vỡ thế bị bao vây, cấm vận, khơi thông quan hệ quốc tế, mở ra cục diện mới, thế và lực mới cho đất nước.

Xuyên suốt Chiến lược bảo vệ Tổ quốc cũng như chính sách đối ngoại, chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định nhất quán quan điểm: “Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”(7).

Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16-4-2018, của Bộ Chính trị (khóa XII), “Về Chiến lược quốc phòng Việt Nam” nhấn mạnh: Xây dựng, củng cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra; tham gia tích cực, trách nhiệm, hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và các vấn đề liên quan của cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Nhất quán với chính sách quốc phòng “bốn không”, trong Sách trắng Quốc phòng năm 2019 khẳng định rõ: “Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược; giúp đỡ nước khác khi được yêu cầu bằng khả năng của mình, bảo đảm tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển”(8).

Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, Sách trắng Quốc phòng năm 2019 nhấn mạnh: “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia”(9).

Những khẳng định trên cho thấy mong muốn, thiện chí và lập trường trước sau như một của Việt Nam trong thực thi chính sách quốc phòng là vì một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển, không có xung đột, chiến tranh.

Lập trường “chọn chính nghĩa, không chọn bên” tiếp tục được Đảng ta khẳng định rõ trong Nghị quyết số 34-NQ/TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, “Về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng”: Thực hiện trường phái “ngoại giao cây tre”, “dĩ bất biến ứng vạn biến”; kiên định về nguyên tắc, mục tiêu chiến lược; linh hoạt về sách lược; tích cực, chủ động ngăn ngừa chiến tranh góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, không để bị động, bất ngờ, không để rơi vào thế cô lập, lệ thuộc, đối đầu; xử lý nhuần nhuyễn, hiệu quả quan hệ giữa “đối tác”, “đối tượng”, giữa hợp tác và đấu tranh; phát triển cân bằng các quan hệ đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc.

Nghị quyết số 2662-NQ/QUTW, ngày 26-2-2024, của Quân ủy Trung ương, “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo” khẳng định quan điểm: Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phải tạo thế đan xen lợi ích, củng cố tin cậy chiến lược với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các nước bạn bè truyền thống; ngăn ngừa nguy cơ xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc, không “chọn bên”; đồng thời, tranh thủ tối đa sự ủng hộ quốc tế, góp phần tăng cường tiềm lực, khả năng tự lực, tự cường về quân sự, quốc phòng, nâng cao sức mạnh tổng hợp góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.

Những quan điểm nhất quán trên là minh chứng rõ ràng cho thấy, Việt Nam không hề khép kín, không tự cô lập mình hay đi ngược lại với xu thế của thời đại như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, mà trái lại, luôn tích cực, chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực quân sự, quốc phòng nhằm tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Sẵn sàng giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; nỗ lực ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Anh-tin-bai

Khối Gìn giữ hòa bình Việt Nam hợp luyện diễu binh, diễu hành Lễ kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước _Nguồn: dantri.vn

Thứ ba, thành tựu hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới là bằng chứng rõ ràng nhất để đập tan luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, sau gần 40 năm đổi mới, đối ngoại đã thực sự trở thành mũi nhọn “tiên phong” trong phá thế bao vây, cô lập của các thế lực thù địch, phản động, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Đến nay, Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn và toàn bộ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... Từ một nước có nền kinh tế chậm phát triển, bị bao vây, cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, tham gia hơn 500 hiệp định thương mại song phương và đa phương, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), bao gồm FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).... Những kết quả trên góp phần đưa Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đem lại nguồn lực to lớn để phát triển đất nước.

Có thể khẳng định, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Quan hệ hợp tác quốc phòng song phương với các nước tiếp tục được củng cố, tăng cường, đạt hiệu quả thiết thực, đi vào chiều sâu, thực chất, góp phần xây dựng lòng tin, tạo thế đan xen chiến lược, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Việt Nam đã xử lý tốt quan hệ quốc phòng với các nước, nhất là với các nước láng giềng, nước lớn, đối tác chiến lược, các nước ASEAN và bạn bè truyền thống.

Đến nay, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã mở rộng và thiết lập quan hệ hợp tác với trên 100 quốc gia, trong đó có 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả nước lớn với nhiều lĩnh vực, cơ chế hợp tác thực chất, hiệu quả như: trao đổi đoàn, đối thoại chính sách quốc phòng, đào tạo, hợp tác quân, binh chủng, công nghiệp quốc phòng, an ninh biển, quân y, cứu hộ - cứu nạn, khắc phục hậu quả chiến tranh, gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, đối ngoại biên giới… Việt Nam đã cử 33 cơ quan tùy viên quốc phòng trực tiếp và kiêm nhiệm tại 41 nước và Liên hợp quốc; có 52 nước đặt cơ quan tùy viên quốc phòng, tùy viên quân sự tại Việt Nam. Trao đổi, tiếp xúc cấp cao giữa lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam với các đối tác được tiến hành thường xuyên, hiệu quả thông qua các cơ chế tham vấn. Công tác đối ngoại biên giới với các quốc gia láng giềng tiếp tục được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ quốc tế với các quốc gia, khu vực khác trên thế giới và tạo lập được quan hệ ổn định và cân bằng với các nước lớn.

Về đối ngoại quốc phòng đa phương, Việt Nam đã tích cực tham gia trách nhiệm và chủ động đóng góp xây dựng, đề xuất nhiều sáng kiến thiết thực tại các cơ chế hợp tác về quốc phòng, an ninh của khu vực và quốc tế, như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-La, Hội nghị An ninh quốc tế Mát-xcơ-va, Diễn đàn Hương Sơn - Bắc Kinh, Đối thoại Quốc phòng Xơ-un,... Đến nay, Việt Nam đã tham gia đầy đủ, liên tục tất cả cơ chế hợp tác quân sự, quốc phòng do ASEAN dẫn dắt; tham gia đầy đủ ở cấp phù hợp với các diễn đàn an ninh quốc tế lớn trong khu vực; tham gia trách nhiệm vào các tổ chức đa phương quốc tế và khu vực. Đặc biệt, đối ngoại quốc phòng đa phương đã có sự chuyển biến mạnh về tư duy từ “tham dự” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, đảm nhận và chủ trì thành công nhiều hoạt động hợp tác quốc phòng đa phương; đã ba lần tổ chức thành công Triển lãm Quốc phòng quốc tế (năm 2022, năm 2023 và năm 2024), qua đó góp phần khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, thúc đẩy hội nhập quốc tế về quốc phòng, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của Quân đội, nâng cao tiềm lực quốc phòng của đất nước.

Trong giải quyết các bất đồng, tranh chấp, Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại, hợp tác để xử lý các khác biệt, bất đồng, đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển của thế giới; đồng thời bảo đảm hài hòa lợi ích và giải quyết thỏa đáng các mối quan tâm của các đối tác, các quốc gia, cộng đồng quốc tế. Trong giải quyết các tranh chấp, xung đột ở khu vực và trên thế giới, trong đó có Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, giải quyết bất đồng bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Việt Nam đã thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), phấn đấu xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.

Việt Nam luôn tích cực, chủ động tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa của Liên hợp quốc với hình thức, quy mô, lực lượng và địa bàn ngày càng được mở rộng. Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã cử gần 1.100 lượt cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại 3 phái bộ và trụ sở Liên hợp quốc. Hiện tại, Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam đang tích cực chuẩn bị thành lập Đội Công binh số 4 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 7 để triển khai trong năm 2025. Đặc biệt, Việt Nam là quốc gia đi đầu về số lượng quân nhân nữ tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình, với tỷ lệ là 16,6% (tỷ lệ trung bình của các nước là gần 10%)(10). Việc tham gia ngày càng tích cực, hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình thế giới của Việt Nam đã được Liên hợp quốc ghi nhận và đánh giá cao, để lại những ấn tượng tốt đẹp, sự trân trọng, quý mến của chính quyền, người dân nước sở tại và bạn bè quốc tế, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, thể hiện vai trò là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Đây là những bằng chứng khẳng định rõ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ trương “chọn chính nghĩa, không chọn bên” trong quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà nước ta là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn; là cơ sở khách quan để bác bỏ toàn bộ luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Thứ tư, thực tiễn quan hệ quốc tế hiện nay cho thấy sự lựa chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Hiện nay, cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm đang hình thành ngày càng rõ nét hơn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện, quyết liệt, thậm chí đối đầu, đang cuốn nhiều quốc gia khác vào “vòng xoáy” quyền lực. Các nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; ra sức lôi kéo liên minh, tập hợp lực lượng, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, nhưng cũng sẵn sàng thỏa hiệp với nhau khi cần, đồng thời can dự, chi phối ngày càng sâu vào các khu vực, nội bộ của các quốc gia khác. Điều này dẫn đến sức ép “chọn bên”, “chọn phe” trong quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh đó, vì mục tiêu chiến lược, không ít quốc gia đã thực hiện “chọn bên”, “chọn phe” trong quan hệ quốc tế. Nhưng thực tế cho thấy, dù chọn bên nào thì khi tranh chấp, xung đột xảy ra cũng sẽ để lại hậu quả nặng nề cho các bên liên quan. Hơn nữa, “chọn bên”, “chọn phe” đồng nghĩa với việc phải chấp nhận chịu sự chi phối, lệ thuộc vào một bên, quan trọng hơn là đánh mất sự độc lập, tự chủ.

Bài học rút ra đối với các nước vừa và nhỏ là phải cân bằng mối quan hệ với các nước lớn, không để bị cuốn vào vòng xoáy cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, không bị đẩy vào tình thế buộc phải “chọn bên”, “chọn phe”, không bị biến thành “quân cờ” trong tay các nước lớn và không trở thành nạn nhân vì những tính toán sai lầm. Trên hết, cần phải kiên quyết giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, không dao động trong mọi tình huống, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh nội lực của mình.

Rõ ràng, cả trong lịch sử và hiện tại, trong chính sách và trên thực tiễn đều cho thấy, trong một thế giới luôn biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường, trước sức ép “chọn bên”, “chọn phe” ngày càng khó khăn, gay gắt như hiện nay, chính đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ với quan điểm nhất quán “chọn chính nghĩa, lẽ phải; không chọn bên, chọn phe”, ngoại giao Việt Nam đã cùng với quốc phòng, an ninh trở thành lực lượng “tiên phong”, “trọng yếu, thường xuyên” kiến tạo và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Đây là minh chứng khách quan, thuyết phục khẳng định đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam là đúng đắn, sáng tạo; đồng thời là luận cứ đanh thép để đập tan mọi âm mưu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động./.

TS Bùi Đình Tiệp

Đại tá, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Nguồn: tapchicongsan.org.vn

--------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 161 - 162
(2) Xem: Vũ Khuyên: “Thủ tướng: "Giữa độc lập và phụ thuộc, chúng tôi luôn chọn độc lập", Đài tiếng nói Việt Nam, ngày 12-5-2022, https://vov.vn/chinh-tri/thu-tuong-giua-doc-lap-va-phu-thuoc-chung-toi-luon-chon-doc-lap-post943187.vov
(3) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 180 - 181
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 445
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 112
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 4, tr. 147
(7) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 119 - 120
(8), (9) Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019Sđd, tr. 28
(10) Hoàng Xuân Chiến: “Quân đội tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 11-2023, tr. 2