Cuốn sách đã chỉ dẫn, động viên sức mạnh của
Đảng, của dân tộc, của quân, dân ta góp phần đưa cuộc kháng chiến toàn dân,
toàn diện giành thắng lợi vẻ vang. Ngày nay, thực hiện Cuộc vận động "Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", cuốn “Sửa đổi lối làm
việc” càng trở nên cần thiết. Có thể nói, đây là cuốn sách giáo khoa có nội
dung sâu sắc, toàn diện về giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ cách mạng của
Đảng, của Nhà nước ta. Trang tin Điện tử Đảng bộ trân trọng giới thiệu lại tác
phẩm này của Người.
I. PHÊ BÌNH VÀ SỬA CHỮA
Bác Hồ làm việc ở Pắc Bó
1. Cán bộ và đảng viên ta, vì bận việc hành
chính hoặc quân sự, mà xao nhãng việc học tập. Đó là một khuyết điểm rất to.
Khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa người khác, mà bệnh nặng trong mình thì
quên chữa. Từ nay, chúng ta cần phải thiết thực học tập, sửa chữa các khuyết
điểm. Vì có tẩy sạch khuyết điểm, công việc mới có thể tiến bộ.
2. Trong bức thư trước, Hồ Chủ tịch đã vạch rõ
khuyết điểm của chúng ta. Những cán bộ và đảng viên các nơi, hoặc chỉ nghiên
cứu qua loa, hoặc nhận thấy khuyết điểm rồi nhưng không cố gắng sửa chữa. Đó là
vì nghiên cứu một cách không thiết thực, không có tổ chức.
Từ nay, chúng ta phải làm như sau này:
A- TỔ CHỨC:
Mỗi cơ quan, bộ đội, đoàn thể phải tổ
chức một uỷ ban học tập, do cán bộ cao cấp lãnh đạo, do các cấp cử đại biểu
tham gia. Số uỷ viên nhiều hay ít, tuỳ hoàn cảnh mà định. Uỷ ban này định ra kế
hoạch; nghiên cứu, thảo luận, kiểm tra và thực hành.
B- THỜI GIAN HỌC TẬP:
Từ 2 đến 3 tháng. Mỗi nơi tuỳ hoàn cảnh mà
định ngày giờ. Dù sao, phải có ngày giờ nhất định.
D- CÁCH THỨC HỌC TẬP:
1. Nghiên cứu - Mỗi người phải đọc kỹ càng các
tài liệu, rồi tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình, có khuyết điểm gì và ưu
điểm gì.
2. Thảo luận - Khai hội thảo luận và phê bình.
Trong lúc thảo luận, mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng
hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh. Những kết
luận trong cuộc thảo luận phải có cấp trên duyệt y mới là chính thức.
Đ- CÁCH PHÊ BÌNH:
Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa
chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn.
Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình
người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải
vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua
cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Những người bị
phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản
chí, hoặc oán ghét.
E- KIỂM TRA:
Uỷ ban học tập phải có một ban kiểm tra
để xem xét việc học tập và sự tiến bộ của mọi người, giúp đỡ người tiến bộ ít,
khen ngợi người tiến bộ nhiều.
G- BÁO CÁO:
Mỗi tháng phải báo cáo về Trung ương một
lần.
H- THỰC HÀNH:
Người có ưu điểm thì phải cố gắng thêm,
và người khác phải cố gắng bắt chước. Mọi người phải tích cực sửa chữa khuyết
điểm của mình và giúp anh em sửa chữa khuyết điểm của họ. Mọi người phải nhớ
rằng: cộng nhiều khuyết điểm nhỏ thành một khuyết điểm to, sẽ rất có hại. Cộng
nhiều ưu điểm nhỏ thành một ưu điểm lớn, rất lợi cho Đảng và công cuộc kháng
chiến.
II. PHẢI SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC
CỦA ĐẢNG
Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo
nhân dân, tranh lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang.
Nhưng, nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc
đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa.
Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không
khéo, thì còn nhiều khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết
điểm ít thì thành tích nhiều. Đó là lẽ tất nhiên.
Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán
bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm
đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng
chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng
thành công. Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu
giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm,
nguy đến tính mệnh.
Khuyết điểm có nhiều thứ. Chúng ta có thể chia
tất cả các khuyết điểm vào ba hạng:
- Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ
quan.
- Khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng với
ngoài Đảng, tức là bệnh hẹp hòi.
- Khuyết điểm về cách nói và cách viết, tức là
ba hoa.
Đó là ba chứng bệnh rất nguy hiểm. Nếu không
chữa ngay, để nó lây ra, thì có hại vô cùng.
A- BỆNH CHỦ QUAN
Mỗi chứng bệnh sinh ra do nhiều nguyên nhân.
Nhưng kết quả nó đều làm cho người ta ốm yếu. Nguyên nhân của bệnh chủ quan là:
Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông.
Trước hết, ta phải hiểu lý luận là gì?
Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong
kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng,
làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân
chính.
Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
hướng cho chúng ta trong công việc thực tế.
Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi.
Hiện nay, phong trào cách mạng rất cao. Nhưng
thử hỏi cán bộ và đảng viên ta đã mấy người biết rõ lý luận và biết áp dụng vào
chính trị, quân sự, kinh tế, và văn hoá? Đã mấy người hiểu “biện chứng” là cái
gì?
Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không
biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ
điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường
thất bại.
Đó là chứng kém lý luận trong bệnh chủ quan.
Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được
việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ
lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: Nếu họ đã có kinh nghiệm mà
lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều. Họ quên rằng: Kinh nghiệm
của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một
mặt mà thôi.
Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như
một mắt sáng, một mắt mờ.
Những anh em đó, cần phải nghiên cứu thêm lý
luận, mới thành người cán bộ hoàn toàn.
Có những người xem được sách, xem nhiều sách.
Siêng xem sách và xem nhiều sách là một việc đáng quý. Nhưng thế không phải đã
là biết lý luận.
Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế.
Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn
hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái
hòm đựng sách.
Xem nhiều sách để mà loè, để làm ra ta đây,
thế không phải là biết lý luận.
Những anh em đó cần phải ra sức thực hành mới
thành người biết lý luận.
Nói tóm lại, mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải
học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh
kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông.
Có những người xem được sách, xem nhiều sách.
Siêng xem sách và xem nhiều sách là một việc đáng quý. Nhưng thế không phải đã
là biết lý luận.
Đây phải nói rõ vấn đề trí thức.
Những người trí thức tham gia cách mạng, tham
gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc
cách mạng khó khăn thêm nhiều.
Nhưng có đôi người trí thức vì thế mà kiêu
ngạo, lên mặt. Chứng kiêu ngạo lên mặt rất có hại cho họ. Nó ngăn trở họ tiến
bộ.
Trí thức là gì?
Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có
hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do
đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã
hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác.
Một người học xong đại học, có thể gọi là có
trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh
giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: Công việc thực tế, y không
biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học
sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn,
thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế.
Vì vậy, những người trí thức đó cần phải biết
rõ cái khuyết điểm của mình. Phải khiêm tốn. Chớ kiêu ngạo. Phải ra sức làm các
việc thực tế.
Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải
nhằm theo lý luận.
Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực
hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng
như không có tên.
Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học
thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích.
Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học
thì phải hành.
B- BỆNH HẸP HÒI
Bệnh này rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và
đảng viên còn mắc phải.
Trong, thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất
và đoàn kết.
Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân.
Nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ
nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm
người giỏi, bệnh hủ hoá,v.v., đều do bệnh hẹp hòi mà ra!
Có những cán bộ chỉ thấy lợi ích bộ phận của
mình, không thấy lợi ích của toàn thể, muốn đem lợi ích của toàn thể phục tùng
lợi ích của bộ phận mình. Họ quên hẳn cái chế độ dân chủ tập trung. Họ quên
rằng thiểu số phải phục tùng đa số, hạ cấp phải phục tùng thượng cấp, bộ phận
phải phục tùng toàn thể.
Chúng ta phải kiên quyết chữa ngay bệnh ấy,
mỗi một đảng viên, mỗi một bộ phận, mỗi một lời nói, việc làm, tuyệt đối phải
nhằm vào lợi ích của toàn cuộc, lợi ích của toàn Đảng.
Vì ham danh vọng và địa vị, cho nên khi phụ
trách một bộ phận nào, thì lôi người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào,
không ưa thì tìm cách tẩy ra. Thế là chỉ biết có mình, chỉ biết có bộ phận mình
mà quên cả Đảng. Đó là một thứ bệnh hẹp hòi, trái hẳn với nguyên tắc tập trung
và thống nhất của Đảng.
Cũng vì bệnh hẹp hòi đó mà cán bộ cấp trên
phái đến và cán bộ địa phương không đoàn kết chặt chẽ.
Phải biết rằng: Chỉ có hai hạng cán bộ đó đoàn
kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ địa phương ngày càng thêm nhiều, thì nền tảng của
Đảng mới phát triển và vững vàng. Cán bộ phái đến, trình độ thường cao hơn,
kinh nghiệm nhiều hơn. Nhưng cán bộ địa phương lại biết rõ nhân dân, quen thuộc
công việc hơn. Hai hạng cán bộ phải giúp đỡ nhau, bồi đắp nhau, thì công việc
mới chạy.
Vì bệnh hẹp hòi mà cán bộ phái đến thường kiêu
ngạo, khinh rẻ cán bộ địa phương, cho họ là dốt kém. Thành thử không thân mật
hợp tác.
Từ nay, hễ có việc lôi thôi như thế nữa, thì
cán bộ phái đến phải chịu lỗi nặng hơn, nhất là những cán bộ lãnh đạo.
Hai hạng cán bộ phải kết thành một khối, không
phân biệt, không kèn cựa. Phải cùng nhau chữa cho tiệt cái nọc bệnh hẹp hòi.
Cán bộ quân sự với cán bộ địa phương cũng vậy,
phải đoàn kết nhất trí, giúp đỡ lẫn nhau.
Cán bộ quân sự trong một địa phương thường giữ
địa vị lãnh đạo và có quyền lực trong tay. Vì vậy, nếu từ nay còn có sự không
hoà thuận giữa hai bên, thì cán bộ quân sự phải chịu lỗi lớn hơn.
Bộ đội này với bộ đội khác, địa phương này với
địa phương khác, cơ quan này với cơ quan khác, đều phải phản đối bệnh ích kỷ,
bệnh địa phương. Thí dụ: không muốn cấp trên điều động cán bộ, hoặc khi điều
động thì chỉ đùn những cán bộ kém ra. Có vật liệu gì dù mình có thừa, hoặc
không cần đến, cũng thu giấu đi, không cho cấp trên biết, không muốn chia sẻ
cho nơi khác.
Bệnh địa phương đó, phải tẩy cho sạch.
Lại còn vấn đề cán bộ cũ và cán bộ mới.
Đảng càng phát triển thì cần đến cán bộ mới
càng nhiều.
Vả chăng, số cán bộ cũ có ít, không đủ cho
Đảng dùng. Đồng thời, theo luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải chết.
Nếu không có cán bộ mới thế vào, thì ai gánh vác công việc của Đảng.
Vì vậy, cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo,
dìu dắt, yêu mến cán bộ mới. Cố nhiên cán bộ mới, vì công tác chưa lâu, kinh
nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ
cũ: Họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng kiến hơn.
Vì vậy, hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ
nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau.
Cán bộ cũ thường giữ địa vị lãnh đạo. Vì vậy,
nếu từ nay, quan hệ giữa hai hạng cán bộ ấy không ổn thoả, thì cán bộ cũ phải
chịu trách nhiệm nhiều hơn. Như thế mới chữa khỏi bệnh hẹp hòi.
Từ trước đến nay, vì bệnh hẹp hòi mà có những
sự lủng củng giữa bộ phận và toàn cuộc, đảng viên với Đảng, cán bộ địa phương
và cán bộ phái đến, cán bộ quân sự và cán bộ “mặt trận”, cán bộ mới và cán bộ
cũ, cơ quan này và cơ quan khác, bộ đội này và bộ đội khác, địa phương này và
địa phương khác.
Vậy từ nay, chúng ta phải tẩy cho sạch cái
bệnh nguy hiểm đó, khiến cho Đảng hoàn toàn nhất trí, hoàn toàn đoàn kết.
Bệnh hẹp hòi đối ngoại.
Có nhiều đồng chí có bệnh tự tôn, tự đại,
khinh rẻ người ta, không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác. Biết
được vài câu lý luận đã cho mình là giỏi, không xem ai ra gì, tưởng mình là hơn
hết. Đó là bệnh hẹp hòi hạng nặng.
Họ quên rằng: Chỉ đoàn kết trong Đảng, cách
mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ quên
rằng: So với số nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân
mới có một người đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm
được việc gì hết.
Vì vậy ta cần phải hợp tác với những người
ngoài Đảng. Ta không được khinh rẻ họ, chê bai họ. Ta phải liên lạc mật thiết
với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc
thì nhất định thất bại.
Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân
tài, việc gì cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên làm không nổi.
Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết cách xử trí
khôn khéo với các hạng đồng bào (như tôn giáo, quốc dân thiểu số, anh em trí
thức, các quan lại cũ, v.v.).
Từ nay, mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, phải kiên
quyết chữa cái bệnh hẹp hòi đó để thực hành chính sách đại đoàn kết. Chính sách
thành công thì kháng chiến mới dễ thắng lợi.
Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi,
v.v., mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh
của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ
hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ
địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó.
Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi:
Vì sao có vấn đề này?
Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao?
Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm
bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy.
Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê
bình ráo riết, và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê
bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau.
Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch ra
rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến. Một mặt là để sửa chữa cho nhau. Một
mặt là để khuyến khích nhau, bắt chước nhau.
Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự
kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì
trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng.
III. MẤY ĐIỀU KINH NGHIỆM
1. Có cán bộ tốt, việc gì cũng
xong
Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định. Sau đây là những kinh nghiệm rõ
ràng:
Chính phủ muốn giúp đồng bào làng X. ở thượng
du mở mang văn hoá, đã lập ra trường và phái giáo viên đến mấy lần, nhưng không
ai đến học. Các giáo viên đều lắc đầu trở về.
Đồng chí A ở Vệ quốc quân, đánh giặc bị
thương, gẫy tay, không cầm súng được nữa, xin đi làm giáo viên.
Được phái đến làng X, A liền đi thăm các nhà,
nói chuyện với các bậc cha mẹ và trẻ em. Kết quả những cuộc nói chuyện đó là:
vì nhà nghèo, thiếu người, trẻ em phải ở nhà giúp việc không đi học được.
A liền tìm cách giải quyết: Vừa học vừa làm.
Khuyên các trẻ em họp thành tiểu tổ, như tổ chăn trâu, tổ cắt cỏ, tổ đan nón,
v.v.. Các trẻ em vừa làm vừa học. Nhờ cách hợp tác, làm lại được nhiều hơn làm
riêng ở nhà. Đồng bào trong làng thấy vậy, chẳng những cho các con đã lớn đi
học, mà gửi cả con còn bé cho thầy, “học được chữ nào hay chữ ấy”. Rồi người
lớn thấy vui cũng đi học.
Nhà trường dột, đồng chí A tự mình lợp lại.
Đồng bào thấy vậy, kéo nhau đến giúp.
Đối với các em làm biếng hoặc nghịch ngợm, A
không đánh phạt, chỉ dùng cách khuyên dỗ, và bày cho các em khác phê bình.
Thành thử dần dần em nào cũng trở nên ngoan ngoãn.
Khi dân làng có việc gì, A cũng ra tay giúp.
Khi có ai cãi cọ nhau, thì A lấy tư cách thầy học trong làng đến dàn xếp.
Thành thử dân làng, nhất là những cha mẹ học
trò, ai cũng kính trọng và yêu mến đồng chí A. Những nhà gần làng thấy vậy,
cũng gửi con đến học.
Đồng chí A chỉ có bằng tiểu học mà đã làm được
công việc những ông giáo khác không làm nổi.
Trong các ngành hoạt động của chúng ta, nào
chính trị, kinh tế, nào quân sự, văn hoá, chắc không thiếu những người có năng
lực, có sáng kiến như A. Nhưng vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu
còn nồng cho nên có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc.
Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta
cần phải sửa chữa cách lãnh đạo. Thí dụ: bắt buộc cán bộ trong mỗi ngành phải
thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài.
2. Chính sách thì đúng, cách
làm thì sai
Chúng ta thường kêu gọi làm làng kiểu mẫu,
trại kiểu mẫu, bộ đội kiểu mẫu, nhà máy kiểu mẫu, v.v., khẩu hiệu đó rất đúng.
Nhưng đến nay, hoặc chưa làm được, hoặc làm được nửa chừng rồi lại nguội. Vì lẽ
gì?
Vì chúng ta quên một lẽ rất giản đơn dễ hiểu:
Tức là vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa,
đều thế cả.
Muốn lập làng kiểu mẫu, đội kiểu mẫu, v.v.,
thì trước phải đào tạo ra những người kiểu mẫu, để làm cán bộ cho làng đó, đội
đó. Làm được một làng, một đội rồi lấy đó làm kiểu mẫu, để khuyến khích và cổ
động nơi khác.
Từ trước đến nay, chúng ta làm trái ngược lại.
Chúng ta nghĩ ra một làng, một đội kiểu mẫu trong tư tưởng, mà không bắt đầu từ
một làng, một đội sẵn có, cho nên kế hoạch không ăn khớp với những hoàn cảnh
thiết thực (khách quan).
Đó cũng là vì bệnh chủ quan của chúng ta. Cho
nên khẩu hiệu tuy đúng, nhưng thực hành không có kết quả mỹ mãn.
Một lẽ nữa, cũng vì cách lãnh đạo và cách làm
không đúng. Khi chúng ta muốn lập một làng hoặc một đội kiểu mẫu, chúng ta đem
cán bộ ngoài đến, để xung phong, mà không đào tạo cán bộ ngay ở đó. Khi cán bộ
xung phong phải điều động đi nơi khác, thì làng kia hoặc đội kia lại xếp. Như
cái bong bóng, thổi hơi vào, thì phùng lên, hơi ra hết, thì xẹp xuống.
Vả lại, chúng ta tham lam làm nhiều trong một
lúc. Thí dụ: Muốn lập một tỉnh kiểu mẫu thì thường hay dàn lực lượng ra làm cả
tỉnh, không biết định cho mỗi huyện chọn một tổng làm kiểu mẫu, mỗi tổng chọn
một làng làm kiểu mẫu. Thành thử, “ăn nhiều, nuốt không xuống”. Chúng ta không
biết tập trung lực lượng, làm xong một nơi, lấy đủ kinh nghiệm, rồi làm nơi
khác.
Vì vậy, từ nay bất kỳ việc gì, chúng ta phải
bắt đầu từ gốc, dần dần đến ngọn, từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, chớ nên
tham mau, tham nhiều trong một lúc.
3. Không biết nghiên cứu kinh
nghiệm đến gốc
Trong các cuộc vận động, như tăng gia sản
xuất, bình dân học vụ, mùa đông binh sĩ, v.v., chúng ta đã được nhiều thành
tích rất khá. Nhưng chúng ta không biết nghiên cứu đến nơi đến chốn, vì sao mà
có thành tích khá? Nơi nào thành tích tốt nhất? Ai là những người làm được
thành tích đó? v.v., để mà học kinh nghiệm, để mà đặt ra khuôn phép cho công
việc khác. Thành thử những cái tốt, cái hay đều không phát triển được. Và công
việc xong rồi là thôi, cán bộ không học được kinh nghiệm gì, mà cũng không tiến
bộ được mấy.
Đồng thời, chúng ta không ra sức nghiên cứu
những sự khó khăn, những chỗ sai lầm, để giải quyết và sửa chữa cho kịp thời.
Thí dụ: Nhiều cán bộ lo làm công việc của
Đảng, nên phải xao nhãng công việc gia đình của họ, thành thử cha mẹ vợ con họ
không vui lòng, mà cũng ảnh hưởng đến quần chúng. (Tuy có đôi nơi có sáng kiến,
đề xướng khẩu hiệu: “cách mạng hoá gia đình”, “cả nhà tham gia công việc kháng
chiến”, v.v.. Song toàn bộ vấn đề vẫn chưa giải quyết). Vấn đề này không giải
quyết một cách hợp lý, rất có ảnh hưởng xấu cho sự tiến tới của cán bộ. Dùng
cán bộ không đúng tài năng của họ, cũng là một cớ thất bại. Thí dụ: Người viết
giỏi nhưng nói kém lại dùng vào những việc cần phải nói. Người nói khéo nhưng
viết xoàng lại dùng vào công việc viết lách. Thành thử hai người đều không có
thành tích.
Từ nay, công việc gì bất kỳ thành công hoặc
thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi
kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khoá phát triển công việc và để giúp cho
cán bộ tiến tới. Có như thế thì người mới có tài, tài mới có dụng.
4. Phải nâng cao sáng kiến và
lòng hăng hái
Chúng ta thường nêu vấn đề đó. Nhưng đến nay,
cán bộ và đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái. Đó là vì lẽ gì?
Vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: Cách lãnh đạo
của ta không được dân chủ, cách công tác của ta không được tích cực.
Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng
ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế.
Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người
lãnh đạo, các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn
phê bình cũng sợ, không dám phê bình.
Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt
nhau. Quần chúng với Đảng rời xa nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới
thì có gì không dám nói ra.
Họ không nói, không phải vì họ không có ý
kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét, có khi lại
bị “trù” là khác.
Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng,
rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói
sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà
thậm thụt” và những thói xấu khác.
Kinh nghiệm là: Cơ quan nào mà trong lúc khai
hội, cấp trên để cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng
thì giải thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người đều hoạt bát mà bệnh
“thì thầm thì thào” cũng hết.
Một người mà trong óc đã có uất ức, bất mãn,
thì lời hay lẽ phải khó lọt vào bộ óc đó. Để cho họ tháo cái uất ức, bất mãn đó
ra, thì lời hay lẽ phải dễ lọt vào óc họ. Đó là một lẽ rất giản đơn. Cấp trên
cũng nên thỉnh thoảng trưng cầu ý kiến phê bình của cấp dưới. Có như thế thì
cũng khác nào như một người có vết nhọ trên mặt, được người ta đem gương cho
soi, mình tự thấy vết nhọ. Lúc đó không cần ai khuyên bảo, cũng tự vội vàng đi
rửa mặt.
Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn
khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để
tự mình sửa chữa.
Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất
quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến.
Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và
người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm
việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều.
Một vấn đề nữa: Chúng ta thường nói đến hai
chữ sáng kiến một cách mênh mông, không thiết thực. Như là phải có tài giỏi đặc
biệt mới có sáng kiến. Nếu ta thử hỏi: sáng kiến là gì? thì chắc nhiều người
trả lời không xuôi. Như thế mà mong cán bộ và đảng viên có sáng kiến thì sao mà
có được!
Chúng ta phải nhận rõ: Bất kỳ việc to việc
nhỏ, hễ thêm điều lợi, trừ điều hại cho quần chúng, giúp quần chúng giải quyết
vấn đề khó khăn, tăng kết quả của việc làm, tăng sức sản xuất của xã hội, đánh
đổ sức áp bức của quân thù, đó đều là sáng kiến.
Cách dạy học của đồng chí A nói trên cũng là
sáng kiến.
Sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là
kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, trong những điều
kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực.
Bất kỳ ai, nếu có quyết tâm làm ích lợi cho
quần chúng, lại chịu học, chịu hỏi quần chúng, óc chịu khó nghĩ, tay chịu khó
làm, thì nhất định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có ích cho loài
người.
Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra,
khuyên gắng cán bộ và đảng viên, bày cho họ suy nghĩ, bày cho họ học hỏi quần
chúng, cổ động họ tìm tòi, đề nghị, làm những việc ích lợi cho quần chúng. Khi
họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ
thêm hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính “gặp chăng hay chớ” ngày càng
bớt, mà sáng kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều thêm.
5. Vì ai mà làm? Đối ai phụ
trách?
Nếu chúng ta hỏi cán bộ: “Việc đó, làm cho ai?
Đối với ai phụ trách?”, chắc số đông cán bộ sẽ trả lời: “Làm cho Chính phủ hoặc
Đảng, phụ trách trước cấp trên”.
Câu trả lời đó chỉ đúng một nửa. Nếu chúng ta
lại hỏi: “Chính phủ và Đảng vì ai mà làm việc đó? Và phụ trách với ai?” thì e
nhiều cán bộ không trả lời được.
Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân
dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách
nhiệm trước nhân dân.
Đó là một lẽ rất giản đơn, rõ ràng. Nhưng
nhiều cán bộ chưa hiểu, cho nên trong lúc làm việc, thường sai lầm; đến nỗi
chia cán bộ Chính phủ và Đảng ra làm một phía, quần chúng ra một phía.
Chính phủ và Đảng chẳng những làm những việc
trực tiếp lợi cho dân, mà cũng có khi làm những việc mới xem qua như là hại đến
dân. Thí dụ: Quyên tiền, thu thuế, công tác phá hoại, v.v..
Vì cán bộ và đảng viên không hiểu rõ hai lẽ:
Vì ai mà làm, đối ai phụ trách, khi gặp mỗi công việc không biết tìm đủ cách
giải thích cho dân hiểu. Cho nên những việc trực tiếp lợi cho dân, như đắp đê,
hộ đê, tăng gia sản xuất, bình dân học vụ, v.v., cán bộ chỉ làm theo cách hạ
lệnh, cách cưỡng bức. Kết quả dân không hiểu, dân oán. Thì có gì lạ đâu? Một
thí dụ rất tầm thường, dễ hiểu: Bánh ngọt là một thứ ngon lành, nhưng đem bánh
ngọt bắt người ta ăn, nhét vào miệng người ta, thì ai cũng chán!
Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này:
dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh
mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích
cho họ hiểu rằng: Những việc đó là vì ích lợi của họ mà phải làm.
Có khi vì cán bộ không hiểu lẽ đó, vì muốn làm
cho được việc, rồi dùng cách hạ mệnh lệnh, cách áp bức, phạm vào thói quan
liêu, quân phiệt, đến nỗi Chính phủ hoặc Đảng phải trừng phạt. Đối với những
bọn vu vơ, đầu cơ, thì phạt rất đáng. Nhưng với những cán bộ trung thành mà bị
phạt, thì Chính phủ và Đảng cũng khổ tâm, mà người bị phạt cũng khổ tâm!
Chẳng những lúc thi hành các mệnh lệnh, cán bộ
ta có cái thái độ xa quần chúng như thế, mà đối với cách làm việc, cách tổ
chức, cũng có thái độ sai lầm đó.
Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều
vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách
làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên
để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa
có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi
báo cáo sau, miễn là được việc.
Đằng này cán bộ ta chỉ biết khư khư giữ nếp
cũ. Cái không hợp cũng không dám sửa bỏ, cái cần thiết cũng không dám đặt mới.
Đó là vì thói không phụ trách “quá hữu”, gặp sao hay vậy.
Song lại có thái độ xa quần chúng, thói không
phụ trách “quá tả” là không suy nghĩ chín chắn, so sánh kỹ càng, hôm nay đặt ra
cái này, hôm sau sửa lại cái khác, làm cho quần chúng hoang mang. Như tỉnh nọ,
bắt đầu kháng chiến, thì bỏ hết Việt Minh các huyện, các xã. Thật là một hành
động khờ dại.
6. Sát quần chúng, hợp quần
chúng
Cán bộ ta có hai chứng bệnh nữa là:
a) Bệnh khai hội
Khai hội không có kế hoạch, không sắp sửa kỹ
lưỡng, không thiết thực. Khai hội lâu, khai hội nhiều quá.
Cán bộ khu về tỉnh, cán bộ tỉnh về huyện, cán
bộ huyện về làng, thì khệnh khạng như “ông quan”. Lúc khai hội thì trăm ngàn
lần như một: “Tình hình thế giới, tình hình Đông Dương, thảo luận, phê bình,
giải tán”.”Ông cán” làm cho một “tua” hai, ba giờ đồng hồ. Nói gì đâu đâu. Còn
công việc thiết thực trong khu, trong tỉnh, trong huyện, trong xã đó, thì không
động đến. Lúc “ông cán” nói, người ngáp, kẻ ngủ gục, mọi người mong ông thôi
đi, để về nhà cho mau. Có ai hiểu gì đâu mà thảo luận!
Vì vậy, mà quần chúng sợ khai hội. Mỗi lần họ
đi khai hội, chẳng khác gì “đi phu”. Đó cũng vì bệnh xa quần chúng, bệnh hình
thức, khai hội lấy lệ, khai hội để mà khai hội, chớ nào phải vì lợi ích của
quần chúng mà khai hội!
Về việc đặt khẩu hiệu, đặt chương trình làm
việc, chương trình tranh đấu, tuyên truyền, làm báo tường, viết báo, cũng như
thế. Không chịu khó hỏi quần chúng cần cái gì, muốn nghe muốn biết cái gì, ham
chuộng cái gì. Chỉ mấy cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà
viết, cứ tưởng những cái mình làm là đúng, mình viết là hay. Nào có biết, cách
làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ, chắp cằm bà kia”, không ăn thua,
không thấm thía, không ích lợi gì cả.
Một việc nữa cần nhắc đến là các ban huấn
luyện. Huấn luyện là một việc rất cần. Tục ngữ có câu: “Không thầy đố mày làm
nên”, và câu: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.
Những việc rất dễ dàng còn phải học. Huống chi
công việc cách mạng, công việc kháng chiến, không có huấn luyện, thì làm sao
xuôi?
Song những tài liệu huấn luyện phải nhằm vào
sự cần dùng, cần thiết của quần chúng. Phải hỏi: Người đến chịu huấn luyện rồi,
có áp dụng được ngay không? Có thực hành được ngay không?
Nếu không thiết thực như thế, thì huấn luyện
mấy năm cũng vô ích.
Tiếc thay, nhiều cán bộ huấn luyện của ta chưa
hiểu cái lẽ giản đơn đó. Vì vậy mà có cán bộ đem “kinh tế học” huấn luyện cho
chị em phụ nữ thôn quê ở thượng du!
Nói tóm lại, cách làm việc, cách tổ chức, nói
chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo, v.v. của chúng ta, đều phải lấy câu
này làm khuôn phép:
“Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần
chúng”.
Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ
và làm cho hợp trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh
nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó
mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần
chúng.
Nếu không vậy, nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư
tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào
“khoét chân cho vừa giầy”. Chân là quần chúng. Giầy là cách tổ chức và làm việc
của ta. Ai cũng đóng giầy theo chân. Không ai đóng chân theo giầy.
b) Bệnh nể nang
Vì họ hàng quen biết, bầu bạn, thân thích, anh
em, cho nên lúc họ có sai lầm cũng cứ nể nang không thiết thực phê bình, thiết
thực sửa đổi, sợ mất lòng.
IV. TƯ CÁCH VÀ ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG
A. TƯ CÁCH CỦA ĐẢNG CHÂN CHÍNH
CÁCH MẠNG
1. Đảng không phải là một tổ chức để làm
quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận
cách mạng, và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn
luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở
trong nước và ở địa phương.
4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà
kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không.
5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công
tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng.
Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng
viên và nhân dân.
6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên
tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những
không lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học được dân chúng. Chẳng những
không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân chúng.
7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững
tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt
bát.Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách
thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của
dân chúng.
8. Đảng không che giấu những khuyết điểm
của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa
chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên.
9. Đảng phải chọn lựa những người rất
trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần
tử hủ hoá ra ngoài.
11. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ
trên xuống dưới. Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất
trí. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với
Đảng.
12. Đảng phải luôn luôn xét lại những
nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì
những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin
cậy của nhân dân đối với Đảng.
Muốn cho Đảng được vững bền Mười hai điều
đó chớ quên điều nào.
B. PHẬN SỰ CỦA ĐẢNG VIÊN VÀ CÁN
BỘ
1. Trọng lợi ích của Đảng hơn hết
Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc,
thì Đảng không có lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân,
lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá,
chính trị của nhân dân. Vì toàn dân được giải phóng, tức là Đảng được giải
phóng.
Vì vậy, mỗi người trong Đảng phải hiểu
rằng: Lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích
của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời
nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài. Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng
lên trên hết, lên trước hết.
Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của
dân tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ
phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên
tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”. Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng
mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích
của cá nhân cho lợi ích của Đảng.
Khi cần đến tính mệnh của mình cũng phải
vui lòng hy sinh cho Đảng. Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ phải hiểu rõ, phải thực
hành như thế. Vì hiểu rõ và thực hành như thế, cho nên trong Đảng ta đã có
những liệt sĩ oanh liệt hy sinh cho Đảng, cho dân tộc, cho Tổ quốc, mà tiếng
thơm để muôn đời. Các liệt sĩ đó đã nêu gương anh dũng cho tất cả đảng viên và
cán bộ ta bắt chước.
Nhiều khi lợi ích của cá nhân hợp với lợi
ích của Đảng. Thí dụ đảng viên và cán bộ cẩn thận giữ gìn sức khoẻ của mình để
làm việc. Ham học tập để nâng cao trình độ của mình. Làm đúng cần, kiệm, liêm,
chính để cho dân tin, dân phục, dân yêu.
Những lợi ích cá nhân đó rất chính đáng.
Đảng mong cho đảng viên và cán bộ như thế. Song ngoài ra, như ham muốn địa vị,
tìm cách phát tài, ra mặt anh hùng, tự cao tự đại, v.v.. Đó đều là trái với lợi
ích của Đảng.
2. Đạo đức cách mạng
Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn
trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do
lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình
sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng
ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm.
Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều:
Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
a) NHÂN là thật thà thương yêu, hết lòng
giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những
việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi
người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực
khổ, không sợ oai quyền. Những người đã không ham, không e, không sợ gì thì
việc gì là việc phải họ đều làm được.
b) NGHĨA là ngay thẳng, không có tư tâm,
không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng,
không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ,
đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không
sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn.
c) TRÍ vì không có việc tư túi nó làm mù
quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương
hướng. Biết xem người. Biết xét việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh
việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian.
d) DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc
phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan
chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu
cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt
rè, nhút nhát.
đ) LIÊM là không tham địa vị. Không tham
tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang
minh chính đại, không bao giờ hủ hoá.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm,
ham tiến bộ.
Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không
phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì
danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài
người. Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?
3. Phải giữ kỷ luật
Lợi ích của dân tộc, gồm có lợi ích của
Đảng. Lợi ích của Đảng, gồm có lợi ích của đảng viên. Vì vậy, sự phát triển và
thành công của Đảng, một mặt tức là thành công của dân tộc, một mặt tức là
thành công của đảng viên. Vì vậy, chỉ có khi Đảng thành công và thắng lợi, thì
đảng viên mới có thể thành công và thắng lợi. Chính vì vậy mà đảng viên cần
phải hy sinh lợi ích của mình cho lợi ích chung của Đảng.
Không ai bắt buộc ai vào Đảng làm chiến
sĩ xung phong. Đó là do sự “tự giác”, lòng hăng hái của mỗi người mà tình
nguyện làm đảng viên, làm chiến sĩ xung phong. Đã vậy, thì mỗi người đảng viên
phải cố gắng cho xứng đáng là một người trong những người đại biểu của dân tộc.
Nhất là những người cán bộ và lãnh tụ,
càng phải làm cho xứng đáng lòng tin cậy của Đảng, của dân tộc. Càng phải làm
gương cho tất cả đảng viên, tất cả quần chúng noi theo.
Cũng vì lợi ích của dân tộc, mà Đảng cần
phải khuyến khích và khen thưởng những ưu điểm và tài năng của đảng viên. Cần
phải giúp cho họ học hành, giúp cho họ làm việc và tuỳ theo hoàn cảnh mà giúp
họ về mặt sinh hoạt, trong lúc ốm đau. Khiến cho họ ham làm việc, vui làm việc.
Nói tóm lại: Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải hoàn toàn phục tùng lợi ích của
Đảng. Không nên có mục đích cá nhân. Không nên vì cá nhân mà yêu cầu Đảng cái
này cái khác, hoặc trách móc Đảng không giúp đỡ mình, không khen thưởng mình.
Đồng thời, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng
viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng học
tập để nâng cao trình độ văn hoá, trí thức và chính trị của mình. Luôn luôn giữ
gìn kỷ luật. Luôn luôn xứng đáng một người cán bộ, một người đảng viên.
4. Đối với các hạng đảng viên
Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng
vì dân, vì nước. Song Đảng có rất đông đảng viên. Phần đông cố nhiên đã hiểu
biết vì dân, vì nước mà vào Đảng. Nhưng cũng có phần vì lẽ khác mà theo vào
Đảng. Thí dụ: Có người tưởng vào Đảng thì dễ tìm công ăn việc làm. Có người vào
Đảng mong làm chức này, tước nọ. Có người vì anh em bạn hữu kéo vào, v.v..
Những người này không biết rằng: cách mạng là một sự nghiệp gian nan cực khổ,
phải có lòng kiên quyết, có chí hy sinh.
Vì vậy khi gặp sự khó khăn, họ không khỏi
dao động, hoang mang.
Dù sao, họ tin Đảng ta, họ kính trọng
Đảng ta, họ tìm vào Đảng ta, đó cũng là một điều tốt. Trừ những bọn vào Đảng để
mong phá hoại, còn những hạng kia chúng ta đều hoan nghênh. Một khi họ đã theo
Đảng thì Đảng phải cảm hoá họ, dạy dỗ họ, nâng cao sự hiểu biết và lòng phụ
trách của họ lên dần dần. Trong sự huấn luyện và tranh đấu lâu dài, họ rất có
thể thành những người chiến sĩ khá.
Đối với những người không chịu nổi khó
nhọc, không chịu nổi kỷ luật nghiêm khắc mà xin ra khỏi Đảng, thì Đảng vẫn bằng
lòng để họ ra. Đảng chỉ yêu cầu một điều là: Họ thề không lộ bí mật của Đảng,
không phản Đảng, không phá hoại Đảng. Như thế thì Đảng vẫn giữ cảm tình thân
thiện với họ.
Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai
cũng có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì
dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính
tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho
người đó; còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có
hại đến nhân dân.
5. Những khuyết điểm sai lầm
Trong Đảng ta còn có những người chưa học
được, chưa làm được bốn chữ “chí công vô tư”, cho nên mắc phải chứng chủ nghĩa
cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng
rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm, thí dụ những bệnh sau
đây:
a) Bệnh tham lam - Những người mắc phải
bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó
mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để
theo đuổi mục đích riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc
đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen
buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình.
b) Bệnh lười biếng - Tự cho mình là cái
gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. Làm biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Việc dễ
thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì
tìm cách để trốn tránh.
c) Bệnh kiêu ngạo - Tự cao, tự đại, ham
địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến
người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai
cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta
phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác.
d) Bệnh hiếu danh - Tự cho mình là anh
hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm.
Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung lay. Những người đó chỉ
biết lên mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng mà không chịu được khổ. Chỉ
ham làm chủ tịch này, uỷ viên nọ, chớ không ham công tác thiết thực.
đ) Thiếu kỷ luật - Đã mắc bệnh cá nhân
thì tư tưởng và hành động cũng đặt cá nhân lên trên. Vì thế mà việc gì cũng
không lấy Đảng làm nền tảng. Mình muốn thế nào thì làm thế ấy. Quên cả kỷ luật
của Đảng. Phê bình thì cốt công kích những đồng chí mình không ưa. Cất nhắc thì
cốt làm ơn với những người mình quen thuộc.
e) Óc hẹp hòi - Ở trong Đảng thì không
biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta hơn mình. ở ngoài Đảng thì khinh
người, cho ai cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế mà không
biết liên lạc hợp tác với những người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng. Vì thế
mà người ta uất ức và mình thành ra cô độc.
g) Óc địa phương - Bệnh này tuy không xấu
bằng các bệnh kia nhưng kết quả cũng rất tai hại. Miễn là cơ quan mình, bộ phận
mình, địa phương mình được việc. Còn các cơ quan, bộ phận, địa phương khác ra
sao cũng mặc kệ. Đó là vì cận thị, không xem xét toàn thể. Không hiểu rằng lợi
ích nhỏ phải phục tùng ích lợi to, ích lợi bộ phận phải phục tùng ích lợi toàn
thể.
h) Óc lãnh tụ - Đánh được vài trận, hoặc
làm được vài việc gì ở địa phương đã cho mình là tài giỏi lắm rồi, anh hùng lắm
rồi, đáng làm lãnh tụ rồi.
Nào có biết so với công cuộc giải phóng
cả dân tộc thì những thành công đó chỉ là một chút cỏn con, đã thấm vào đâu! Mà
so với những sự nghiệp to tát trong thế giới, càng không thấm vào đâu.
Cố nhiên, Đảng ta mong cho có nhiều anh
hùng, nhiều lãnh tụ, được dân tin, dân phục, dân yêu. Những anh hùng và lãnh tụ
như thế là của quý của Đảng, của dân tộc. Song, những anh hùng và lãnh tụ như
thế đều do tranh đấu và kinh nghiệm rèn luyện ra, đều do dân chúng và đảng viên
tin cậy mà cử ra, chứ không phải tự mình muốn làm lãnh tụ, làm anh hùng mà
được.
Từ xưa đến nay, quần chúng không bao giờ
tin cậy và yêu mến những kẻ tự cao, tự đại, những kẻ có óc lãnh tụ, tự xưng ta
đây là anh hùng, lãnh tụ.
Đem so với công việc của cả loài người
trong thế giới, thì những người đại anh hùng xưa nay cũng chẳng qua làm tròn
một bộ phận mà thôi. Mỗi người chúng ta cố làm đầy đủ những công việc Đảng giao
phó cho, thế là ta làm tròn nhiệm vụ, và lòng tự hào đó giúp cho ta tiến bộ
mãi.
6. Những bệnh khác
a) Bệnh “hữu danh, vô thực” - Làm việc
không thiết thực, không tự chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho
có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho
oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch.
Thí dụ việc tổ chức - Trong báo cáo thì
làng nào, huyện nào, tỉnh nào cũng có. Hạng người nào cũng có. Có hàng vạn hàng
ức người. Nhưng khi soạn lại cặn kẽ, hỏi lại rõ ràng, nhưng nơi đó có bao nhiêu
người, những tổ chức đó đã làm việc gì, cán bộ đã đến đó mấy lần, đã làm gì cho
những tổ chức đó, thì chưa có gì thiết thực hết.
Thế là không làm tròn nhiệm vụ của mình.
Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc không thiết thực, báo cáo
không thật thà, cũng là một bệnh rất nguy hiểm.
b) Kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất
nguy hiểm nữa.
Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với
mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho
nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu,
việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó
xuống.
Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại
đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ
chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra
những mối nghi ngờ.
c) Bệnh cận thị - Không trông xa thấy
rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ.
Thí dụ: việc tăng gia sản xuất, việc tiếp tế bộ đội thì không lo đến, mà chỉ lo
thế nào để lợi dụng cơm cháy và nước gạo trong các bộ đội.
Những người như vậy, chỉ trông thấy sự
lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn.
d) Bệnh “cá nhân”
1. Việc gì không phê bình trước mặt để
nói sau lưng. Khi khai hội thì không nói, lúc khai hội rồi mới nói. Không bao
giờ đề nghị gì với Đảng. Không theo nguyên tắc sinh hoạt của Đảng. Muốn sao làm
vậy.
2. Muốn làm xong việc, ai có ưu điểm cũng
không chịu học theo, ai có khuyết điểm cũng không dám phê bình.
3. Không phục tùng mệnh lệnh, không tuân
theo kỷ luật. Cứ làm theo ý mình.
4. Khi phê bình ai, không phải vì Đảng,
không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi
bướng, trả thù, tiểu khí.
5. Nghe những lời bình luận không đúng,
cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí nghe những lời phản cách mạng cũng
không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ.
6. Gặp dân chúng thì không điều tra,
không hỏi han, không tuyên truyền, không giải thích. Xem như dân chúng không có
quan hệ gì với mình.
7. Thấy những việc có hại đến dân chúng
cũng mặc kệ, không khuyên răn, không ngăn cản, không giải thích.
8. Làm việc không có kế hoạch, gặp sao
làm vậy, làm lấy lệ, làm không có ngăn nắp, làm không đến nơi đến chốn.
9. Tự cho mình là “cách mạng già”, “cách
mạng cũ”; việc to làm không nổi, việc nhỏ không chịu làm. Làm việc thì lờ mờ,
học hành thì biếng nhác.
10. Biết mình có khuyết điểm, nhưng không
chịu cố gắng sửa đổi.
Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch
xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không
thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng.
Mắc phải bệnh đó thì dễ đi đến chỗ để lợi
ích cá nhân lên trên, để lợi ích Đảng và dân tộc xuống dưới.
Một người cách mạng bao giờ cũng phải
trung thành, hăng hái, xem lợi ích của Đảng và dân tộc quý hơn tính mệnh của
mình. Bao giờ cũng quang minh chính trực, ham cách sinh hoạt tập thể, luôn luôn
săn sóc dân chúng, giữ gìn kỷ luật, kiên quyết chống lại “bệnh cá nhân”.
đ) Bệnh lười biếng - Khi tiếp được mệnh
lệnh hoặc nghị quyết, không chịu nghiên cứu rõ ràng. Không lập tức đưa ngay
mệnh lệnh và nghị quyết đó cho cấp dưới, cho đảng viên, cho binh sĩ. Cứ xếp lại
đó. Khi thi hành, kềnh kềnh càng càng, không hoạt bát nhanh chóng.
Hoặc thi hành một cách miễn cưỡng, không
sốt sắng, không đến nơi đến chốn. Kết quả nhỏ là: Nghị quyết đầy túi áo, thông
cáo đầy túi quần. Kết quả nặng là: phá hoại tổ chức của Đảng, giảm bớt kỷ luật
của Đảng, bỏ mất thời cơ tốt, lúc nên làm thì không làm, khi làm thì trễ rồi.
Đó là vì tính lười biếng, chậm chạp. Vì không hiểu rằng: Đảng cũng như thân thể
một con người. Mệnh lệnh và nghị quyết cũng như mạch máu. Mạch máu chạy đều
khắp thân thể thì người mạnh khoẻ. Mạch máu dừng lại đâu, không chạy thì chỗ đó
sẽ tê liệt, sinh bệnh. Mệnh lệnh và nghị quyết đi mau, đi suốt từ trên đến
dưới, công tác mau chóng, việc gì cũng xong xuôi. Nó ngừng lại cấp nào, từ cấp
đó trở xuống là tê liệt, không biết đường nào mà công tác.
Cách chữa:
- Các cơ quan chỉ đạo phải có cách lãnh
đạo cho đúng. Mỗi việc gì đều phải chỉ bảo cách làm.
- Cấp trên phải hiểu rõ tình hình cấp
dưới và tình hình quần chúng, để chỉ đạo cho đúng.
- Khi nghị quyết việc gì, phải cẩn thận,
rõ ràng. Khi đã nghị quyết thì phải kiên quyết thi hành.
Mỗi nghị quyết phải mau chóng truyền đến
các cấp dưới, đến đảng viên, đến dân chúng. Cách tiện nhất là khai hội với các
đảng viên, khai hội với dân chúng (hoặc binh sĩ), phái người đến báo cáo, giải
thích.
- Các cấp dưới, đảng viên và dân chúng
(hoặc binh sĩ) phải thảo luận những mệnh lệnh và nghị quyết đó cho rõ ràng,
hiểu thấu ý nghĩa của nó và định cách thi hành cho đúng.
- Cấp dưới cần phải báo cáo. Cấp trên cần
phải kiểm soát.
e) Bệnh tị nạnh - Cái gì cũng muốn “bình
đẳng”.
Thí dụ: Cấp trên vì công việc phải cưỡi
ngựa, đi xe. Cấp dưới cũng muốn cưỡi ngựa, đi xe.
Người phụ trách nhiều việc, cần có nhà
rộng. Người không phụ trách nhiều việc, cũng đòi nhà rộng.
Phụ cấp cho thương binh cũng muốn nhất
luật, không kể thương nặng hay nhẹ.
Làm việc gì, thì muốn già, trẻ, mạnh, yếu
đều làm bằng nhau.
Có việc, một người làm cũng được, nhưng
cũng chờ có đủ mọi người mới chịu làm.
Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ bình
đẳng. Không hiểu rằng: người khoẻ gánh nặng, người yếu gánh nhẹ. Người làm việc
nặng phải ăn nhiều, người làm việc dễ thì ăn ít. Thế là bình đẳng.
Cách chữa - Giải thích cho họ hiểu: đồng
cam cộng khổ là một điều rất hay, rất tốt. Nhất là trong lúc cái gì cũng còn
túng thiếu, và mỗi đảng viên, mỗi cán bộ cần phải làm kiểu mẫu trong sự cần
lao, tiết kiệm. Nhưng cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh. Cái gì thái quá cũng không
tốt. Bình đẳng thái quá cũng không tốt. Thí dụ: Nếu một chiến sĩ bị thương được
đi xe, ăn ngon, các chiến sĩ khác đều đòi đi xe, đòi ăn ngon . Hoặc vì bình
đẳng mà bắt buộc một trẻ em cũng ăn nhiều, cũng gánh nặng, như một người lớn. Nếu
như thế là bình đẳng, thì bình đẳng đó rất vô lý, rất xấu, chúng ta phải kiên
quyết chống lại thứ bình đẳng đó.
Sợ mất oai tín và thể diện mình, không
dám tự phê bình.
Lại nói: Nếu phê bình khuyết điểm của
mình, của đồng chí mình, của Đảng và Chính phủ, thì địch sẽ lợi dụng mà công
kích ta.
Nói vậy là lầm to. Khuyết điểm cũng như
chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu
bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết “cũng la
lết quả dưa”.
Nói về từng người, nể nang không phê
bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác
nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê
bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ
thuốc độc cho mình!
Nói về Đảng, một Đảng mà giấu giếm khuyết
điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình,
vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra
khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là
một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.
Đảng cần phải biết những ưu điểm và
khuyết điểm của mình để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng. Sợ phê bình, tức
là “quan liêu hoá”, tức là tự mãn tự túc, tức là “mèo khen mèo dài đuôi”.
Phê bình không phải để công kích, để nói
xấu, để chửi rủa.
g) Bệnh xu nịnh, a dua - Lại có những
người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi
ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái.
Còn bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, bệnh
nóng tính, bệnh lụp chụp, v.v., đã nói qua, đây không nhắc nữa.
7. Những khuyết điểm sai lầm vì sao mà có
và tự đâu mà đến?
Khuyết điểm đâu mà nhiều thế?
Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm
đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất
kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính
nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng.
Nhưng không vì thế mà kinh sợ. Ta đã thấy
rõ những bệnh ấy thì ta tìm được cách chữa.
Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật
thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố
gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực
phê bình và tự phê bình.
Đá đi lâu cũng mòn. Sắt mài lâu cũng sắc.
Ta cố gắng sửa chữa thì khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm. Đảng
viên và cán bộ ngày càng trở nên người chân chính cách mạng. Đảng ngày càng
phát triển.
Mong ai nấy đều phải thiết thực sửa đổi.
Đảng ta là một tổ chức rất tiến bộ, đã có những thành tích rất vẻ vang.
Trong Đảng ta, gồm có những người có tài,
có đức. Phần đông những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất,
kiên quyết, dũng cảm nhất đều ở trong Đảng ta. Chúng ta chắc chắn đi đến thắng
lợi và thành công.
Tuy vậy, không phải là người người đều
tốt, việc việc đều hay. Trong Đảng ta chưa hoàn toàn tránh khỏi một vài kẻ vu
vơ, những việc không chính đáng, như vừa kể trên.
Cũng như một nhà có rể khờ, dâu dại,
không thể cấm họ gặp gỡ bà con. Đảng ta dù muốn giấu những người và những việc
không tốt kia, cũng không thể giấu. Quần chúng luôn luôn liên lạc với Đảng ta.
Những người hăng hái đồng tình với Đảng ta, hoặc tham gia Đảng ta. Họ chẳng
những trông thấy những người tốt, việc tốt, mà họ cũng trông thấy những người
xấu, việc xấu trong Đảng. Họ sẽ ngơ ngác mà hỏi ” Đảng này là Đảng tốt, đảng
viên đều là người tốt, vì sao lại có những người vu vơ, những việc mờ tối như
thế nhỉ?”.
Câu hỏi đó làm cho chúng ta càng thêm chú
ý, làm cho đảng viên và cán bộ phải cẩn thận giữ mình, và cẩn thận săn sóc, dắt
dìu những người cảm tình, những đảng viên mới, chớ để họ bị ảnh hưởng xấu. Đồng
thời, chúng ta phải trả lời cho câu hỏi đó cho đúng. Nếu không thì người ta sẽ
thất vọng và bi quan.
Trả lời thế nào?
Rất là giản đơn, dễ hiểu:
Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó
ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những
phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu
ngạo, xa hoa, v.v.. Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ.
Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng.
Cũng như những người hàng ngày lội bùn,
mà trên mình họ có hơi bùn, có vết bùn. Như thế thì có gì là kỳ quái? Vì lội
bùn thì nhất định có hơi bùn. Cần phải tắm rửa lâu mới sạch. Trái lại, nếu lội
bùn mà không có hơi bùn, mới thật là kỳ quái. Nếu trong Đảng ta, một đảng mới
từ trong xã hội cũ bước ra, nếu nó hoàn toàn không có những người xấu, việc xấu
như thế mới là kỳ quái chứ! Cố nhiên nói thế không phải là để tự bào chữa.
Đảng một mặt phải làm công việc giải
phóng dân tộc, một mặt phải giáo dục đảng viên và cán bộ, kiên quyết cảm hoá
những phần tử xấu, sửa chữa những thói xấu còn lại. Phải cố sửa chữa cho tiệt
nọc các chứng bệnh, khiến cho Đảng càng mạnh khoẻ, bình an.
8. Cách đối với các khuyết điểm
Vì Đảng rất to, người rất đông; mỗi hạng
người lại có thói quen, tính nết, trình độ, tư tưởng, nhận xét khác nhau. Nhất
là khi phong trào cách mạng càng sôi nổi, hoàn cảnh càng khó khăn, thì sự khác
nhau đó càng rõ rệt, càng trở nên gay go.
Nên giải quyết những mối mâu thuẫn đó thế
nào?
Có người thì cho rằng: trong Đảng việc gì
cũng tốt, không có khuyết điểm gì đáng lo. Có người lại cho rằng: Trong Đảng
cái gì cũng kém, đầy những khuyết điểm, vì vậy mà họ bi quan, thất vọng. Hai
cách nhận xét đó đều không đúng.
Sự thật là: Đảng ta rất tiền tiến, rất vẻ
vang. Nhưng nội bộ vẫn còn những sự sai lầm và khuyết điểm. Đồng thời, chúng ta
thấy cái nguồn gốc của những sai lầm khuyết điểm đó, và chắc tìm được cách sửa
chữa. Chúng ta quyết tâm công tác thêm, để làm cho Đảng tiến bộ thêm mãi.
Thái độ mỗi người đối với những khuyết
điểm của Đảng ta cũng khác nhau.
Bọn phản động thì lợi dụng những khuyết
điểm đó và tô vẽ thêm để phá hoại Đảng ta.
Lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm đó,
để đạt mục đích tự tư tự lợi của họ. Đó là thái độ của đảng viên và cán bộ đầu
cơ.
Bọn thứ ba thì sao cũng mặc kệ, sao xong
chuyện thì thôi. Không phê bình, không tự phê bình. Đó là thái độ của những
đảng viên và cán bộ ươn hèn yếu ớt.
Bọn thứ tư thì đối với những người có
khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi phải đuổi
bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu Đảng không làm như thế thì họ cho rằng: Thôi,
hỏng hết rồi! Do đó, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa
hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ những người máy móc quá. Đó cũng là
bệnh “chủ quan”.
Thái độ thứ năm, là thái độ đúng. Tức là:
a) Phân tách rõ ràng, cái gì đúng, cái gì
là sai.
b) Không chịu nổi ảnh hưởng của những chủ
trương sai lầm, những phần tử không tốt. Ra sức học tập và nâng cao những kiểu
mẫu tốt.
c) Không để mặc kệ. Mà ra sức tranh đấu
sửa chữa những khuyết điểm, không để nó phát triển ra, không để nó có hại cho
Đảng.
d) Không làm cách máy móc. Nhưng khéo
dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm
và khuyết điểm, giúp họ tiến bộ.
đ) Đoàn kết Đảng bằng sự tranh đấu nội
bộ. Nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng.
Bọn phản động và bọn đầu cơ là địch nhân
lọt vào trong Đảng để phá hoại. Vì vậy chúng ta phải ra sức đề phòng. Mỗi khi
trong Đảng có khuyết điểm thì chúng ta phải tìm cách chớ để cho ai lợi dụng. Đó
là phận sự của mỗi một đảng viên chân chính.
Thái độ thứ ba, ai mặc kệ ai, cố nhiên
cũng không đúng. Tuy vậy, trong Đảng, còn có nhiều người giữ thái độ đó, nhất
là khi cấp dưới đối với cấp trên. Thái độ đó thường sinh ra thói “không nói
trước mặt, hục hặc sau lưng”. Nó gây nên sự uất ức và không đoàn kết trong
Đảng. Nó để cho bọn vu vơ có thể chui vào hoạt động trong Đảng. Nó để cho
khuyết điểm ngày càng chồng chất lại và phát triển ra.
Nếu theo thái độ thứ tư thì Đảng chỉ còn
một nhóm cỏn con, vì số đông sẽ bị khai trừ hết. Mà chính những người có thái
độ đó cũng bị khai trừ, vì họ đã phạm cái khuyết điểm hẹp hòi.
Kết luận - Trong công tác, trong tranh
đấu, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi
mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê
bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm
lên và Đảng ta nhất định thắng lợi.
C. TƯ CÁCH VÀ BỔN PHẬN ĐẢNG
VIÊN
1. Tư cách
a) Thừa nhận chính sách của Đảng. Thực
hành các nghị quyết của Đảng. Ra sức làm công việc Đảng. Nộp đảng phí.
b) Những người trí thức, công nhân, nông
dân, phụ nữ, quân nhân, hăng hái yêu nước, từ 18 tuổi trở lên đều được vào
Đảng.
c) Mỗi người muốn vào Đảng phải có hai
đảng viên cũ giới thiệu.
- Những người bỏ đảng phái khác mà vào
Đảng, phải có ba người giới thiệu, và phải được cấp trên của Đảng chuẩn y.
- Những người rời Đảng đã lâu, mà có
người làm chứng rằng, trong thời gian đó không hề làm việc gì có hại cho Đảng,
thì được trở lại làm đảng viên.
d) Những người mới vào Đảng phải qua một
thời kỳ dự bị. Nông dân và công nhân hai tháng. Quân nhân ba tháng. Trí thức
bốn tháng.
đ) Trong thời kỳ dự bị, Đảng phải dạy dỗ
cho họ, và trao việc cho họ làm. Đồng thời, Đảng phải xem xét tính nết, công
tác và lịch sử của họ.
- Những người giới thiệu phải giúp đỡ họ
học tập và công tác.
e) Những người dự bị phải công tác cho
Đảng và nộp đảng phí.
Họ có quyền tham gia huấn luyện, đề ra ý
kiến, bàn bạc các vấn đề, nhưng không có quyền biểu quyết.
Họ cũng chưa có quyền giữ các trách nhiệm
chỉ đạo như làm tổ trưởng, thư ký, v.v.. (Trong những hoàn cảnh đặc biệt, như
nơi đó mới bắt đầu có Đảng, hoặc đại đa số đều đảng viên mới, thì không phải
theo lệ này).
2. Bổn phận
a) Suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ
quốc.
b) Đặt lợi ích của cách mạng lên trên
hết, lên trước hết.
c) Hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của
Đảng.
d) Kiên quyết thi hành những nghị quyết
của Đảng.
đ) Cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng
trong mọi việc.
e) Cố gắng học tập chính trị, quân sự,
văn hoá. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo
quần chúng.
D- PHẢI RÈN LUYỆN
TÍNH ĐẢNG
Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có
tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên.
Tính đảng là gì?
Một là: Phải đặt lợi ích của Đảng,
của dân tộc lên trên hết.
Hai là: Việc gì cũng phải điều tra
rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn.
Phải hiểu rằng: Đảng có hiểu rõ tình hình
thì đặt chính sách mới đúng. Mà muốn Đảng hiểu rõ thì đảng viên và cán bộ phải
điều tra và báo cáo rõ ràng tình hình từng xã, từng huyện, từng tỉnh, từng khu.
Nếu không biết rõ tình hình mà đặt chính
sách thì kết quả là “nồi vuông úp vung tròn”, không ăn khớp gì hết.
Ba là: Lý luận và thực hành phải
luôn luôn đi đôi với nhau.
Vì kém tính đảng mà có những bệnh sau
này:
Bệnh ba hoa, Bệnh chủ quan, Bệnh địa
phương, Bệnh hình thức, Bệnh ham danh vị, Bệnh ích kỷ, Bệnh thiếu kỷ luật, Bệnh
hủ hoá, Bệnh cẩu thả (gặp sao hay vậy), Bệnh thiếu ngăn nắp, Bệnh xa quần
chúng, Bệnh lười biếng.
Mắc phải một bệnh trong mười hai bệnh đó
tức là hỏng việc. Vì vậy, chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình
để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy. Có như thế Đảng mới chóng phát triển.
Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết
điểm của đồng chí mình.
Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết
điểm của mình.
Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với
nhau. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa
những khuyết điểm.
Về mặt Đảng thì phải thực hành những điều
sau này:
1. Phải nghiêm ngặt kiểm tra, các địa
phương phải kiên quyết thực hành những nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chống
lại cái thói nghị quyết một đường, thi hành một nẻo.
2. Nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập
tức sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu, chống thói “trước mặt
thì nể, kể lể sau lưng”. Phê bình thì phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng,
thành thật - mục đích là cốt sửa chữa, chứ không phải để công kích, cốt giúp
nhau tiến bộ, chứ không phải làm cho đồng chí khó chịu, nản lòng.
3. Phải kiên quyết thực hành kỷ luật, tức
là cá nhân phải tuyệt đối phục tùng tổ chức, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp
dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương.
4. Phải đòi hỏi mỗi đảng viên, trước hết
là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của
mình. Đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Kiên quyết chống bệnh tự
mãn tự túc, tự tư tự lợi, kiêu ngạo, ba hoa. Phải thực hành khẩu hiệu: “Chí
công vô tư; cần, kiệm, liêm, chính!”.
V. VẤN ĐỀ CÁN BỘ
1. Huấn luyện cán bộ
Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng.
Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công
việc.
Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc
gốc của Đảng.
Đảng có mở những lớp huấn luyện cán bộ.
Nhưng đại đa số cán bộ, hoặc bận công việc, hoặc xa xôi quá, chưa được huấn
luyện. Đối với những cán bộ đó, Đảng cần phải tìm cách huấn luyện họ (hoặc mở
lớp ở địa phương, hoặc gửi sách vở cho họ nghiên cứu, v.v.).
Khuyết điểm trong sự huấn luyện - Đã có
nơi mở lớp huấn luyện, thế rất tốt. Song những lớp ấy còn nhiều khuyết điểm.
Thí dụ: huấn luyện cho cán bộ trong các cơ quan hành chính mà không đụng đến
công việc hành chính.
Còn dạy chính trị thì mênh mông mà không
thiết thực, học rồi không dùng được.
Phần đông cán bộ là công nhân và nông
dân, văn hoá rất kém. Đảng chưa tìm đủ cách để nâng cao trình độ văn hoá của
họ.
Huấn luyện lý luận cho những cán bộ cao
cấp, đến nay hoặc chưa làm, hoặc làm không đúng, lý luận và thực tế không ăn
khớp với nhau, dạy theo cách học thuộc lòng.
Đó là những điều Đảng nên sửa chữa ngay,
theo cách sau đây:
a) Huấn luyện nghề nghiệp
Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học
việc ấy.
Vô luận ở quân sự, chính trị, kinh tế,
văn hoá, tổ chức, tuyên truyền, công an, v.v., cán bộ ở môn nào phải học cho
thạo công việc ở trong môn ấy.
Những cơ quan lãnh đạo và những người phụ
trách phải có kế hoạch dạy cho cán bộ trong môn của mình, do các cấp Đảng giúp
vào. Cách học tập gồm có 5 môn:
1. Điều tra: Tình hình có quan hệ với
công tác của mình. Thí dụ: Môn quân sự, thì điều tra, phân tách, nghiên cứu rõ
ràng tình hình của địch, của bạn, của ta, chọn những điểm chính làm tài liệu
huấn luyện cho cán bộ.
2. Nghiên cứu: Những chính sách, chỉ thị,
nghị quyết. Thí dụ: Cán bộ về môn tài chính, phải hiểu rõ chính sách tài chính
và những nghị quyết về tài chính của Chính phủ.
3. Kinh nghiệm: Thí dụ: Ban tuyên truyền
thì gom góp tất cả những kinh nghiệm thành công hoặc thất bại trong công việc
tuyên truyền, chép thành tài liệu huấn luyện, cho cán bộ tuyên truyền học.
4. Lịch sử: Thí dụ: Môn kinh tế thì đem
những sự thay đổi trong nền kinh tế của nước ta trong thời kỳ gần đây làm tài
liệu huấn luyện.
5. Khoa học: Thí dụ: Các cán bộ quân sự
thì phải nghiên cứu khoa học quân sự, cán bộ y tế phải nghiên cứu y học. Cán bộ
môn nào thì nghiên cứu lý luận của môn ấy.
Các cơ quan lãnh đạo của mỗi môn phải gom
góp tài liệu, sắp xếp cách dạy và học, kiểm tra kết quả, sao cho cán bộ trong
môn mình dần dần đi đến thạo công việc.
b) Huấn luyện chính trị
Có hai thứ: Thời sự và chính sách.
Cách huấn luyện thời sự là khuyên gắng và
đốc thúc các cán bộ xem báo, thảo luận và giải thích những vấn đề quan trọng,
và định kỳ khai hội cán bộ, báo cáo thời sự.
Huấn luyện chính sách là đốc thúc các cán
bộ nghiên cứu và thảo luận những nghị quyết, những chương trình, những tuyên
ngôn của Đảng, của Chính phủ.
Huấn luyện chính trị, môn nào cũng phải
có. Nhưng phải tuỳ theo mỗi môn mà định nhiều hay ít. Thí dụ: cán bộ chuyên môn
về y tế, về văn nghệ, v.v. thì ít hơn. Cán bộ về tuyên truyền, tổ chức, v.v.,
thì phải nghiên cứu chính trị nhiều hơn.
c) Huấn luyện văn hoá
Với những cán bộ còn kém văn hoá, thì
việc huấn luyện này rất trọng yếu. Trước hết phải dạy cho họ những thường thức:
lịch sử, địa dư, làm tính, khoa học tự nhiên, xã hội, chính trị, cách viết báo
cáo, nghĩa vụ và quyền lợi người công dân.
Các bài học do một ban phụ trách sắp xếp.
Lớp học do một hoặc vài ba cơ quan tổ
chức với nhau.
Những lớp đó cần phải có giáo viên luôn
luôn phụ trách và giáo viên ngoài giúp việc.
Các cán bộ có thể thay phiên nhau mà đi
học.
Cần phải ưu đãi các giáo viên và khen
thưởng những lớp tổ chức tốt.
Những cán bộ học trong những lớp này,
phải theo trình độ văn hoá cao hay thấp mà đặt lớp, chứ không theo cấp bậc cán
bộ cao hay thấp.
d) Huấn luyện lý luận
Những cán bộ cao cấp và trung cấp mà có
sức nghiên cứu lý luận (trình độ văn hoá khá, ham nghiên cứu), thì ngoài việc
học tập chính trị và nghề nghiệp đều cần học thêm lý luận.
Huấn luyện lý luận có hai cách:
Một cách là chỉ đem lý luận khô khan nhét
cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu rất
kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm
chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích.
Một cách là trong lúc học lý luận, phải
nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế. Lúc học rồi, họ có thể tự
mình tìm ra phương hướng chính trị có thể làm những công việc thực tế, có thể
trở nên người tổ chức và lãnh đạo. Thế là lý luận thiết thực , có ích.
Lý luận do kinh nghiệm cách mạng ở các
nước và trong nước ta, do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp
phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó thành ra lý luận.
Nhưng phải biết khéo lợi dụng kinh
nghiệm. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng một mực bắt chước làm theo thế
ấy. Thí dụ: Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai
cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng.
Trái lại, kinh nghiệm các nước và ở nước
ta đều nói: Phải gần gụi dân chúng, vào sâu trong dân chúng. Điều này rất đúng.
Ta phải kiên quyết thực hành theo kinh nghiệm đó.
Kinh nghiệm các nước và ở nước ta nói:
Phải kiên quyết chống bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa. Ta cũng phải
kiên quyết chống những bệnh đó vì nhận thấy ta thường mắc phải và các bệnh này
rất có hại cho công tác, rất hại cho Đảng.
Học tập - Khuôn khổ học tập, chia ra khoa
học chính trị, khoa học kinh tế, khoa học lịch sử, v.v., mà học dần dần.
Học tập thì theo nguyên tắc: Kinh nghiệm
và thực tế phải đi cùng nhau. Thí dụ: khoa học chính trị dùng sách vở, bài báo
bàn về chiến lược, chiến thuật làm tài liệu lý luận; lấy lịch sử và kinh nghiệm
tranh đấu của Đảng làm tài liệu thực tế.
Khoa học kinh tế lấy “kinh tế chính trị
học” làm tài liệu lý luận, lấy lịch sử kinh tế của nước ta gần 100 năm nay làm
tài liệu thực tế.
Các môn khác cũng thế.
Cách học tập: Tổ chức từng ban cao cấp
hoặc trung cấp. Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào.
- Sắp xếp thời gian và bài học cho những
lớp đó, phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với nhau.
- Vô luận công tác môn nào, lớp huấn
luyện nào, đều phải tuyệt đối chống bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa.
Các tài liệu huấn luyện phải do cơ quan lãnh đạo xét kỹ.
- Cách huấn luyện này là huấn luyện lâu
dài. Cho nên nguyên tắc là: để phát triển nghề nghiệp mà không trở ngại đến
nghề nghiệp và sức khoẻ của cán bộ. ở các cơ quan, mỗi ngày ít nhất phải học
tập một tiếng đồng hồ. Những nơi vì hoàn cảnh kháng chiến đặc biệt, thời giờ
dài hay ngắn, tuỳ theo điều kiện mà định. Những giờ học tập đều tính như những
giờ làm việc. Khi cất nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả
công tác khác mà định.
- Cách kiểm tra, thi khảo, thưởng phạt
những lớp đó, do Trung ương định.
- Các cơ quan cần phải rất chú ý đến việc
huấn luyện cán bộ. Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc
huấn luyện đó. Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dạy. Không nên bủn
xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện.
2. Dạy cán bộ và dùng cán bộ
Công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém.
Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán
bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta.
Đảng ta là một đoàn thể đấu tranh. Trong
cuộc tranh đấu thường hao tổn một số cán bộ quý báu. Vì vậy, chúng ta càng phải
quý cán bộ, phải bổ sung cán bộ, phải giữ gìn cán bộ cũ và đào tạo cán bộ mới.
Mặt trận dân tộc ngày càng rộng, nảy nở ra hàng ngàn hàng vạn người hăng hái,
tham gia vào Đảng ta. Họ hăng hái nhưng lý luận còn thiếu, kinh nghiệm còn ít.
Trong công tác, họ thường gặp những vấn đề to tát, họ phải tự giải quyết. Vì
vậy chúng ta cần phải đặc biệt chú ý săn sóc những cán bộ đó.
Vì vậy, vấn đề cán bộ là một vấn đề rất
trọng yếu, rất cần kíp.
Đối với vấn đề đó, Đảng phải làm thế nào?
1. Phải biết rõ cán bộ - Từ trước đến
nay, Đảng ta chưa thực hành cách thường xem xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm
to. Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy
những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hoá cũng lòi ra.
2. Phải cất nhắc cán bộ một cách cho
đúng. Cất nhắc cán bộ là một công tác cần kíp. Khi cất nhắc một cán bộ, cần
phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến
phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng
không đúng tài của họ, cũng không được việc.
Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi
đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo.
Như thế rất có hại.
3. Phải khéo dùng cán bộ - Không có ai
cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa
chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không
biết tuỳ tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo
đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người,
thì hai người đều thành công.
4. Phải phân phối cán bộ cho đúng - Thí
dụ: Trong một nơi quan trọng ở một thành thị to thì phải phái những cán bộ có
quan hệ
khăng khít với quần chúng. Họ là người
trong quần chúng mà ra, có sáng kiến, tinh thần, chắc chắn, chí khí vững vàng.
Phải dùng người đúng chỗ, đúng việc.
5. Phải giúp cán bộ cho đúng - Phải luôn
luôn dùng lòng thân ái mà giúp đỡ, lãnh đạo cán bộ. Giúp họ sửa chữa những chỗ
sai lầm. Khen ngợi họ lúc họ làm được việc. Và phải luôn luôn kiểm soát cán bộ.
6. Phải giữ gìn cán bộ - Tại những nơi
phải công tác bí mật khi cần thì phải phái cán bộ mới thế cho cán bộ cũ, và
phái cán bộ cũ đi nơi khác.
Phải tìm mọi cách để giữ bí mật cho cán
bộ.
3. Lựa chọn cán bộ
a) Những người đã tỏ ra rất trung thành
và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh.
b) Những người liên lạc mật thiết với dân
chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế,
thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
c) Những người có thể phụ trách giải
quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn.
Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì
không phải người lãnh đạo.
Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi
thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị
quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn.
d) Những người luôn luôn giữ đúng kỷ
luật.
Đó là những khuôn khổ để lựa chọn cán bộ,
chúng ta phải theo cho đúng.
Trong Đảng ta, có những nơi thường dùng
những người văn hay nói khéo, nhưng không làm được việc, không ra tranh đấu. Mà
những đồng chí viết không hay nói không thạo nhưng rất trung thành, hăng hái,
rất gần gũi quần chúng, thì bị dìm xuống. Chúng ta phải sửa chữa ngay những
điểm đó.
Đã lựa chọn đúng cán bộ còn cần phải dạy
bảo lý luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có một mắt
sáng, một mắt mù
4. Cách đối với cán bộ
Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra
rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng
ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi
họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước.
Chúng ta phải tẩy sạch các bệnh kiêu
ngạo, bệnh hẹp hòi, bệnh bao biện.
Tóm lại, đối với cán bộ có năm cách:
a) Chỉ đạo - Thả cho họ làm, thả cho họ
phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng không sợ. Nhưng phải luôn luôn tuỳ theo hoàn
cảnh mà bày vẽ cho họ về phương hướng công tác, cách thức công tác, để cho họ
phát triển năng lực và sáng kiến của họ, đúng với đường lối của Đảng.
b) Nâng cao - Luôn luôn tìm cách cho họ
học thêm lý luận và cách làm việc, làm cho tư tưởng, năng lực của họ ngày càng
tiến bộ.
c) Kiểm tra - Không phải ngày nào cũng
kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa
khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất
bại mới chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ.
d) Cải tạo - Khi họ sai lầm thì dùng cách
“thuyết phục” giúp cho họ sửa chữa. Không phải một sai lầm to lớn, mà đã vội
cho họ là “cơ hội chủ nghĩa”, đã “cảnh cáo”, đã “tạm khai trừ”. Những cách quá
đáng như thế đều không đúng.
đ) Giúp đỡ - Phải cho họ điều kiện sinh
sống đầy đủ mà làm việc. Khi họ đau ốm, phải có thuốc thang. Tuỳ theo hoàn cảnh
mà giúp họ giải quyết vấn đề gia đình. Những điều đó rất quan hệ với tinh thần
của cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong Đảng.
5. Mấy điểm lớn trong chính
sách cán bộ
Đảng ta gồm có hàng triệu người, hàng vạn
cán bộ. Trong đó, sĩ, công, nông, thương, binh đều có. Từng lớp xã hội khác
nhau, trình độ, văn hoá khác nhau; tính tình cá nhân cũng không giống hệt.
Sao cho đối đãi đúng với mọi người? Đó là
một vấn đề rất trọng yếu. Vì vậy, chúng ta cần phải chú ý mấy việc dưới đây:
Hiểu biết cán bộ, Khéo dùng cán bộ, Cất
nhắc cán bộ, Thương yêu cán bộ, Phê bình cán bộ.
a) Hiểu biết cán bộ - Biết người, cố
nhiên là khó. Tự biết mình, cũng không phải là dễ.
Đã không tự biết mình thì khó mà biết
người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước phải biết đúng
sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể
nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu. Người ta thường phạm những chứng bệnh sau
này:
1. Tự cao tự đại,
2. Ưa người ta nịnh mình,
3. Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với
người,
4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật
hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau.
Phạm một trong bốn bệnh đó thì cũng như
mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình
trông.
Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một
cách đúng đắn các hạng người, trước hết phải sửa những khuyết điểm của mình.
Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng.
Trong thế giới, cái gì cũng biến hoá. Tư
tưởng của người cũng biến hoá. Vì vậy cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp
nhất, vì nó cũng phải biến hoá. Thí dụ: Có người khi trước theo cách mạng mà
nay lại phản cách mạng. Có người khi trước không cách mạng mà nay lại tham gia
cách mạng. Thậm chí có người nay đang theo cách mạng, nhưng sau này có thể phản
cách mạng.
Một người cán bộ khi trước có sai lầm,
không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng
chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi
người không phải luôn giống nhau.
Xem xét cán bộ, không chỉ xem ngoài mặt
mà còn phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem
toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ. Có người lúc phong trào cách mạng
cao, họ vào Đảng, họ làm việc rất hăng. Nhưng lúc phong trào hơi khó khăn thì
đâm ra hoang mang. Lúc gặp sự nguy hiểm thậm chí hoá phản cách mạng, làm mật
thám. Muốn làm mật thám được việc, thì nó lại công tác hăng hơn ai hết. Nếu ta
không xem xét rõ ràng, thì lầm nó là cán bộ tốt.
Vì vậy, nhận xét cán bộ không nên chỉ xét
ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của
cán bộ.
Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm
việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay
công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm
được việc, cũng không phải cán bộ tốt.
Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe
khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc
dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô
luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù
công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt.
Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ
xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ.
b) Khéo dùng cán bộ - Lúc dùng cán
bộ, nhiều người phạm vào những chứng bệnh sau đây:
1. Ham dùng người bà con, anh em quen
biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài.
2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình,
mà chán ghét những người chính trực.
3. Ham dùng những người tính tình hợp với
mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình.
Vì những bệnh đó, kết quả những người kia
đã làm bậy, mình cũng cứ bao dung, che chở, bảo hộ, khiến cho chúng càng ngày
càng hư hỏng. Đối với những người chính trực thì bới lông tìm vết để trả thù.
Như thế, cố nhiên là hỏng cả công việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người
lãnh đạo.
Thế nào là dùng cán bộ đúng?
- Mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có
thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán
bộ khỏi bị bỏ rơi.
- Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể
gần gụi những người mình không ưa.
- Phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có
thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ.
- Phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ
bao vây, mà cách xa cán bộ tốt.
- Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các
đồng chí mới vui lòng gần gụi mình.
Mục đích khéo dùng cán bộ, cốt để thực
hành đầy đủ chính sách của Đảng và Chính phủ. Nếu cán bộ có ý hoang mang, sợ
hãi, buồn rầu, uất ức, hoặc công tác không hợp, chắc không thành công được.
Vì vậy, muốn cán bộ làm được việc, phải
khiến cho họ yên tâm
làm việc, vui thú làm việc. Muốn như thế,
phải thực hành những điểm này:
1. Khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề
ra ý kiến. Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn
biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo
đề ra ý kiến và phê bình. Như thế, chẳng những không phạm gì đến uy tín của
người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng.
Nếu cán bộ không nói năng, không đề ý
kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất
xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là
mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những
cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán ghét,
chán nản.
Như thế mà muốn cán bộ công tác cho giỏi
thì sao được?
2. Khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có
gan làm việc. Cố nhiên việc hay hay dở, một phần do cán bộ đủ năng lực hay
không. Nhưng một phần cũng do cách lãnh đạo đúng hay không. Năng lực của người
không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do tập
luyện mà có. Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hoá ra tài to. Lãnh đạo không khéo,
tài to cũng hoá ra tài nhỏ.
Khi giao công tác cho cán bộ cần phải chỉ
đạo rõ ràng, sắp đặt đầy đủ. Vạch rõ những điểm chính, và những khó khăn có thể
xảy ra. Những vấn đề đã quyết định rồi, thả cho họ làm, khuyên gắng họ cứ cả
gan mà làm. Cũng như trong quân đội, khi chiến lược chiến thuật và nhiệm vụ đã
quyết định rồi, vị Tổng tư lệnh không cần nhúng vào những vấn đề lặt vặt. Phải
để cho các cấp chỉ huy có quyền “tuỳ cơ ứng biến”, mới có thể phát triển tài
năng của họ. Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ cũng như một cái máy, việc
gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến.
Trước khi trao công tác, cần phải bàn kỹ
với cán bộ. Nếu họ gánh không nổi, chớ miễn cưỡng trao việc đó cho họ. Khi đã
trao cho họ phải hoàn toàn tin họ. Không nên sớm ra lệnh này, trưa đổi lệnh
khác.
Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không
được, rồi việc gì mình cũng nhúng vào. Kết quả thành chứng bao biện, công việc
vẫn không xong. Cán bộ thì vơ vẩn cả ngày, buồn rầu, nản chí.
Phải đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có
gan làm việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành công.
Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ
bảo “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho
Đảng.
3. Không nên tự tôn, tự đại, mà phải
nghe, phải hỏi ý kiến của cấp dưới.
Nếu ý kiến các đồng chí cấp dưới đúng, ta
phải nghe theo, khuyên họ thường đề thêm ý kiến, để nâng tinh thần và sáng kiến
của họ.
Nếu ý kiến của họ không đúng, ta nên dùng
thái độ thân thiết, giải thích cho họ hiểu. Quyết không nên phùng mang trợn
mắt, quở trách, giễu cợt họ.
Nếu họ phê bình ta, ta phải vui vẻ thừa
nhận. Không nên tỏ vẻ bất bình, để lần sau họ không dám phê bình nữa.
Nếu có cán bộ không yên tâm làm việc, ta
phải xét rõ cái chỗ lãnh đạo không đúng của ta, để thuyết phục và khuyên gắng
người đó. Nếu vì công tác không hợp với năng lực của họ, phải tìm công việc
thích hợp hơn cho họ làm.
c) Phải có gan cất nhắc cán bộ - Cất
nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng
hái. Như thế, công việc nhất định chạy.
Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì
nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế
là có tội với Đảng, có tội với đồng bào.
Trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận xét
rõ ràng. Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt
của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét
việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không.
Chẳng những xem xét họ đối với ta thế
nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác thế nào. Ta nhận họ tốt, còn
phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay không. Phải biết ưu điểm của họ,
mà cũng phải biết khuyết điểm của họ, không nên chỉ xem công việc của họ trong
một lúc, mà phải xem cả công việc của họ từ trước đến nay.
Biết rõ ràng cán bộ, mới có thể cất nhắc
cán bộ một cách đúng mực.
Cất nhắc cán bộ, không nên làm như “giã
gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp
đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một
cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Đối với cán bộ,
chẳng những phải xem xét rõ ràng trước khi cất nhắc. Mà sau khi đã cất nhắc
phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của họ.
Ai cũng có lòng tự trọng, tự tin. Không
có lòng tự trọng, tự tin là người vô dụng.
Nhưng khoe khoang, kiêu ngạo không phải
là tự trọng. Đó là một chứng bệnh. Vì vậy, người lãnh đạo cần phải tôn trọng
lòng tự tin, tự trọng của các đồng chí mình.
Nếu để sai lầm và khuyết điểm trở nên to
tát rồi mới đem ra “chỉnh” một lần, thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập”, mất
cả lòng tự tin, người hăng hái cũng hoá thành nản chí, từ nản chí đi đến vô
dụng.
Vì vậy hễ thấy cán bộ sai lầm, phải lập
tức sửa chữa ngay. Nếu không việc to quá, họ làm không nổi, tốt nhất là đổi
việc khác cho thích hợp với họ, mà không cần cho họ biết vì họ không làm nổi
việc kia. Đó là để giữ lòng hăng hái của họ, để cho họ khỏi nản lòng.
d) Yêu thương cán bộ - Không phải
vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt. Nhưng cần
phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được. Trái lại, trong lúc
tranh đấu, rất dễ mất một người cán bộ. Vì vậy, Đảng phải thương yêu cán bộ.
Nhưng thương yêu không phải là vỗ về,
nuông chiều, thả mặc.
Thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến
bộ thêm. Là giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì
điều kiện dễ chịu, khi đau ốm được chăm nom, gia đình họ khỏi khốn quẫn, v.v..
Thương yêu là luôn luôn chú ý đến công
tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ thấy khuyết điểm thì giúp cho họ sửa chữa ngay, để
vun trồng cái thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ. Đồng thời, phải
nêu rõ những ưu điểm, những thành công của họ. Làm thế không phải là làm cho họ
kiêu căng, mà cốt làm cho họ thêm hăng hái, thêm gắng sức. Phải vun đắp chí khí
của họ, để đi đến chỗ “bại cũng không nản, thắng cũng không kiêu”. Lúc phê bình
họ, ta chớ có thái độ gay gắt. Lúc khen ngợi họ, ta phải cho họ hiểu rằng: năng
lực của mỗi người đều có giới hạn, tuy có thành công cũng chớ kiêu ngạo. Kiêu
ngạo là bước đầu của thất bại.
đ) Đối những cán bộ sai lầm- Người đời ai
cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm.
Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết
điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Và càng sợ
những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm
và khuyết điểm.
Trừ những người cố ý phá hoại, ngoài ra
không ai cố ý sai lầm, sai lầm là vì không hiểu, không biết. Vì vậy, đối với
cán bộ bị sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế, mà công kích
họ. Trái lại, ta phải dùng thái độ thân thiết, giúp họ tìm ra cái cớ vì sao mà
sai lầm? Sai lầm như thế, sẽ có hại đến công việc thế nào? Làm thế nào mà sửa
chữa? Tóm lại, phải phê bình cho đúng.
Muốn họ thành tâm sửa chữa, phải giải
thích rõ ràng, làm cho họ tự trông thấy, tự nhận rõ sự sai lầm đó, làm cho họ
vui lòng sửa đổi, chứ không phải bị cưỡng bức mà sửa đổi.
Sự sửa đổi khuyết điểm, một phần cố nhiên
là trách nhiệm của cán bộ đó. Nhưng một phần cũng là trách nhiệm của người lãnh
đạo.
Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách
giải thích thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không
dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ
mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không
dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng.
Vì vậy, cần phải phân tách rõ ràng cái cớ
sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng.
Cách đối với cán bộ là một điều trọng yếu
trong sự tổ chức công việc. Cách đối với cán bộ có khéo, có đúng thì mới thực
hiện được nguyên tắc: “Vấn đề cán bộ quyết định mọi việc”.
Phê bình cho đúng, chẳng những không làm
giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại, còn làm cho sự lãnh đạo
mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm.
VI. CÁCH LÃNH ĐẠO
1. Lãnh đạo và kiểm soát
“Chẳng những phải lãnh đạo quần chúng, mà
lại phải học hỏi quần chúng”.
Câu đó nghĩa là gì ?
Nghĩa là: Người lãnh đạo không nên kiêu
ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho
sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn
phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của
mình.
Nghĩa là một giây, một phút cũng không
thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng.
Nghĩa là phải lắng tai nghe ý kiến của
đảng viên, của nhân dân, của những người “không quan trọng”.
Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào?
Cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng
giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh.
Lãnh đạo đúng nghĩa là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách
cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì
dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà
muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn
kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được.
Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một
mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: Trông từ trên xuống. Vì vậy
sự trông thấy có hạn.
Trái lại, dân chúng trông thấy công việc,
sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự
trông thấy cũng có hạn.
Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng,
ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại.
Muốn như thế, người lãnh đạo ắt phải có
mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng.
Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và
luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng
và nhờ đó mà Đảng thắng lợi.
Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ
chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại.
Chọn người và thay người cũng là một vấn
đề quan trọng trong việc lãnh đạo.
Những người mắc phải bệnh quan liêu, bệnh
bàn giấy, không làm được việc, phải thải đi. Ngoài ra còn có hai hạng người,
cũng phải chú ý:
Một là có những người cậy mình là “công
thần cách mạng”, rồi đâm ra ngang tàng, không giữ gìn kỷ luật, không thi hành
nghị quyết của Đảng và của Chính phủ. Thế là họ kiêu ngạo, họ phá kỷ luật của
Đảng, của Chính phủ.
Cần phải mời các ông đó xuống công tác hạ
tầng, khép họ vào kỷ luật, để chữa tính kiêu ngạo, thói quan liêu cho họ và để
giữ vững kỷ luật của Đảng và của Chính phủ.
Hai là hạng người nói suông. Hạng người
này tuy là thật thà, trung thành, nhưng không có năng lực làm việc, chỉ biết
nói suông. Một thí dụ: Hôm nọ tôi hỏi một cán bộ L:
- Mùa màng năm nay thế nào ?
L trả lời: Việc đó tôi đã động viên nhân
dân rồi.
Hỏi: Rồi sao nữa ?
L trả lời: Tôi đã bày tỏ vấn đề đó một
cách rất đầy đủ.
Hỏi: Rồi sao nữa ?
L trả lời: Công tác xem chừng khá.
Hỏi: Rồi sao nữa ?
L trả lời: Chắc là có tiến bộ.
Hỏi: Nói tóm lại đã cày cấy được mấy mẫu
?
L trả lời: Ở vùng chúng tôi, cày cấy hiện
nay chưa đâu ra đâu cả!
Trong Đảng ta, có một số người như thế.
Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng
một việc gì thiết thực cũng không làm được. Những người như thế cũng không thể
dùng vào công việc thực tế.
Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy;
muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn
biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát.
Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi
ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi.
Song, muốn kiểm soát có kết quả tốt, phải
có hai điều: Một là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là
người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín.
Kiểm soát cách thế nào?
Cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng
giấy mà chờ người ta báo cáo, mà phải đi tận nơi, xem tận chỗ.
Vì ba điều mà cần phải có kiểm soát như
thế:
1. Có kiểm soát như thế mới biết rõ cán
bộ và nhân viên tốt hay xấu.
2. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của
các cơ quan.
3. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của
các mệnh lệnh và nghị quyết.
Kiểm soát có hai cách: Một cách là từ
trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ
mình.
Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần
chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa
chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên.
Còn ở trong Đảng, khi khai hội, các đảng
viên nghe những người lãnh đạo báo cáo công việc, các đảng viên phê bình những
khuyết điểm, cử hoặc không cử đồng chí nọ hoặc đồng chí kia vào cơ quan lãnh
đạo. Đó là kiểm soát theo nguyên tắc dân chủ tập trung, phê bình và tự phê
bình, những nguyên tắc mà Đảng phải thực hành triệt để.
Ở quần chúng, khai hội, phê bình và bày
tỏ ý kiến, bầu cử các uỷ ban, các hội đồng, v.v.; đó là những cách quần chúng
kiểm soát những người lãnh đạo.
2. Lãnh đạo thế nào ?
Bất kỳ công việc gì, cũng phải dùng hai
cách lãnh đạo sau đây: Một là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng.
Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng.
Thế nào là liên hợp chính sách chung với
chỉ đạo riêng?
Bất kỳ việc gì, nếu không có chính sách
chung, kêu gọi chung, không thể động viên khắp quần chúng.
Song, nếu người lãnh đạo chỉ làm chung,
làm khắp cả một lúc, mà không trực tiếp nhằm một nơi nào đó, thực hành cho kỳ
được, rồi lấy kinh nghiệm nơi đó mà chỉ đạo những nơi khác, thì không thể biết
chính sách của mình đúng hay sai. Cũng không thể làm cho nội dung của chính
sách đó đầy đủ, thiết thực.
Thí dụ: Việc chỉnh đốn Đảng. Ngoài những
kế hoạch chung về việc đó, mỗi cơ quan hoặc mỗi bộ đội phải chọn vài ba bộ phận
trong cơ quan hay bộ đội mình, nghiên cứu rõ ràng và xem xét kỹ lưỡng sự phát
triển (công việc chỉnh đốn Đảng) trong những bộ phận đó.
Đồng thời, trong vài ba bộ phận đó, người
lãnh đạo lại chọn năm, ba người cán bộ kiểu mẫu, nghiên cứu kỹ càng lịch sử của
họ, kinh nghiệm, tư tưởng, tính nết của họ, sự học tập và công tác của họ.
Người lãnh đạo phải tự mình chỉ đạo những
người phụ trách trong bộ phận đó, giúp họ giải quyết những vấn đề thực tế, để
rút kinh nghiệm.
Những người phụ trách trong một cơ quan
hoặc một bộ đội, cũng chọn vài ba bộ phận, rồi cũng làm theo cách đó.
Đó là một cách vừa lãnh đạo vừa học tập.
Bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không học
tập nổi những việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết
thực của cấp dưới, để rút kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ đạo chung
cho tất cả các bộ phận.
Mỗi cán bộ phụ trách cần phải làm theo
cách này cho kỳ được.
Thế nào là liên hợp lãnh đạo với quần
chúng?
Bất kỳ việc gì (thí dụ việc chỉnh đốn
Đảng), người lãnh đạo phải có một số người hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh
đạo. Nhóm trung kiên này phải mật thiết liên hợp với quần chúng, công việc mới
thành.
Nếu chỉ có sự hăng hái của nhóm trung
kiên, mà không liên hợp với sự hăng hái của quần chúng, nhóm trung kiên sẽ phải
chạy suốt ngày mà không kết quả mấy.
Nếu chỉ có sự hăng hái của quần chúng mà
không có sự hăng hái của nhóm trung kiên để tổ chức và dìu dắt, thì sự hăng hái
của quần chúng sẽ không bền và không thể tiến tới.
Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất
định có ba hạng người: Hạng hăng hái, hạng vừa vừa, và hạng kém. Mà trong ba
hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa, nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém
đều ít hơn.
Vì vậy, người lãnh đạo phải dùng hạng
hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do trung kiên đó mà nâng cao hạng vừa
vừa và kéo hạng kém tiến lên.
Nhóm trung kiên đó phải do công tác và
tranh đấu trong đám quần chúng mà nảy nở ra, chứ không phải tự ngoài quần
chúng, xa cách quần chúng mà có được.
Mỗi cuộc tranh đấu thường có ba giai
đoạn, ba bước: Bước đầu, bước giữa và bước cuối cùng. Nhóm trung kiên lãnh đạo
trong mỗi cuộc tranh đấu, không có thể mà cũng không nên luôn luôn y nguyên như
cũ. Trong mỗi giai đoạn, cần phải luôn luôn cất nhắc những người hăng hái trong
giai đoạn đó, để thay thế cho những người cũ bị đào thải hoặc vì tài không xứng
chức, hoặc hủ hoá.
Những nơi công việc không chạy đều vì
không có nhóm lãnh đạo mật thiết liên hợp với quần chúng. Thí dụ: Trong một
trường học, nếu không có một nhóm thầy giáo, chức viên và học sinh hăng hái
nhất trong trường, từ mười người đến vài mươi người, đoàn kết thành nhóm trung
kiên lãnh đạo, thì công việc của trường đó nhất định uể oải.
Vì vậy, bất kỳ cơ quan nào, bộ đội nào,
cũng cần phải chọn một nhóm người hăng hái, trung thành, có năng lực, giữ kỷ
luật, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
*****
Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực
của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng.
Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ
tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý
kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, và làm
cho nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành
ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến
đó đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu
điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ
vững và thực hành.
Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực
hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước. Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt.
Vì không biết đoàn kết những phần tử hăng
hái, tổ chức họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo, hoặc vì không biết làm cho
trung kiên đó mật thiết liên hợp với quần chúng, cho nên sự lãnh đạo xa rời
quần chúng mà sinh ra bệnh quan liêu.
Vì không biết gom góp ý kiến của quần
chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của những người lãnh đạo
thành ra lý luận suông, không hợp với thực tế.
Vì không biết liên hợp chính sách chung
với sự thiết thực chỉ đạo riêng (như mục 2 đã nói), cho nên chính sách không có
kết quả, mà sự lãnh đạo cũng hoá ra quan liêu.
Vì vậy, trong công việc chỉnh đốn Đảng,
cũng như trong mọi công việc khác, quyết phải thực hành cách liên hợp sự lãnh
đạo với quần chúng và liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng.
Phải dùng cách “từ trong quần chúng ra,
trở lại nơi quần chúng”. Gom góp ý kiến và kinh nghiệm trong sự chỉ đạo từng bộ
phận, đem làm ý kiến chung. Rồi lại đem ý kiến chung đó để thí nghiệm trong các
bộ phận. Rồi lại đem kinh nghiệm chung và mới, đúc thành chỉ thị mới. Cứ như
thế mãi. Biết làm như vậy mới thật là biết lãnh đạo.
*****
Bất kỳ công tác gì, chiến tranh, sản
xuất, giáo dục, kiểm soát, v.v., cơ quan lãnh đạo cấp trên cần phải kinh qua
những người phụ trách chung của cơ quan lãnh đạo cấp dưới, mỗi khi có việc gì
liên quan đến một ngành hoạt động nào đó thuộc cấp dưới. Có như thế, mới đạt
được mục đích phân công mà thống nhất.
Không nên một bộ phận nào đó thuộc cấp
trên chỉ tìm thẳng dọc xuống bộ phận cùng loại thuộc những cơ quan cấp dưới
(như ban tổ chức cấp trên chỉ tìm ban tổ chức cấp dưới, ban tuyên truyền cấp
trên chỉ tìm ban tuyên truyền cấp dưới, v.v.), để liên lạc chỉ đạo theo hệ
thống dọc, thành thử người phụ trách chung thuộc cơ quan cấp dưới, như thư ký,
chủ tịch, chủ nhiệm, v.v., không biết đến, hoặc không phụ trách.
Phải cho cả người phụ trách chung và
những người phụ trách bộ phận cấp dưới đều biết, đều phụ trách.
Một việc gì do người phụ trách chung chỉ
huy, thì nhiều cán bộ hoặc tất cả cán bộ đều ra làm. Như thế tránh được cái tệ
cán bộ không phụ trách, mà mọi người đều thành ra cán bộ cho công tác đó.
Đó cũng là một cách: Người lãnh đạo liên
hợp với quần chúng. Thí dụ: Việc kiểm soát cán bộ trong một trường học. Nếu
người lãnh đạo động viên số đông hoặc tất cả nhân viên và học sinh trong trường
tham gia công việc kiểm soát, mà nhân viên trong ban kiểm tra cấp trên biết chỉ
đạo đúng, theo cách “lãnh đạo liên hợp với quần chúng”, thì việc kiểm soát nhất
định kết quả tốt.
Bất kỳ địa phương nào, cơ quan nào,
thường trong một lúc có nhiều công việc trọng yếu. Trong một thời gian đó, lại
có một việc trọng yếu nhất và vài ba việc trọng yếu vừa. Người lãnh đạo trong
địa phương hoặc cơ quan đó phải xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng.
Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch,
gặp việc nào, làm việc ấy, thành thử việc nào cũng là việc chính, lộn xộn,
không có ngăn nắp.
Đối với mỗi địa phương, mỗi cơ quan,
người lãnh đạo cấp trên cần phải xét cho rõ tình hình, hoàn cảnh, và điều kiện
cả địa phương hoặc cơ quan đó, mà quyết định việc gì là việc chính của thời kỳ
nào. Khi đã quyết định, thì phải thực hành triệt để, cho đạt kết quả đã định.
Đó cũng là cách “lãnh đạo liên hợp với
quần chúng”, chính sách chung liên hợp với chỉ đạo riêng. Trên đây là những
nguyên tắc lớn trong việc lãnh đạo.
Những cán bộ phụ trách phải theo nguyên
tắc đó, đường lối đó mà làm. Đồng thời phải ra sức suy nghĩ, tìm tòi, để tăng
thêm sáng kiến của mình.
Công việc càng gay go thì sự lãnh đạo
càng phải liên hợp chặt chẽ với quần chúng, càng phải liên hợp chặt chẽ chính
sách chung với chỉ đạo riêng, để phá tan cách lãnh đạo lờ mờ, quan liêu, chủ
quan, bàn giấy.
3. Học hỏi quần chúng nhưng
không theo đuôi quần chúng
Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái,
rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải
hiểu dân chúng.
Vì vậy, mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công
tác, mỗi một chính sách của chúng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của
dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng.
Mà muốn hiểu biết, học hỏi dân chúng, thì
ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn, phải chịu khó. Nếu không
vậy, thì dân chúng sẽ không tin chúng ta. Biết, họ cũng không nói. Nói, họ cũng
không nói hết lời.
Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm
được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên. Làm việc với dân
chúng có hai cách:
1. Làm việc theo cách quan liêu. Cái gì
cũng dùng mệnh lệnh. ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết
chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo.
Có nhiều cán bộ theo cách đó. Họ còn tự
đắc rằng: Làm như thế, họ vẫn “làm tròn nhiệm vụ”, làm được mau, lại không rầy
rà.
Họ quên rằng: Đảng ta và Chính phủ ta làm
việc là làm cho dân chúng. Việc gì, cũng vì lợi ích của dân mà làm. Làm theo
cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công,
nhưng về mặt chính trị, là thất bại.
2. Làm theo cách quần chúng. Việc gì cũng
hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ.
Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức làm.
Như thế hơi phiền một chút, phiền cho
những người biếng học hỏi và giải thích. Nhưng việc gì cũng nhất định thành
công.
Có người nói rằng: mọi việc họ đều phụ
trách trước Đảng, trước Chính phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Họ phụ
trách trước Đảng và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân. Mà
phụ trách trước nhân dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng
và Chính phủ vì dân mà làm các việc, và cũng phụ trách trước nhân dân. Vì vậy
nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là không phụ trách trước Đảng và
Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ.
Nếu trong những chính sách, những chỉ
thị, những khẩu hiệu của cấp trên, có gì khuyết điểm, cán bộ phải có tinh thần
phụ trách trước nhân dân mà đề nghị những chỗ nên sửa đổi. Không làm như vậy,
tức là cán bộ không phụ trách trước nhân dân, mà cũng không phụ trách trước
Đảng và Chính phủ.
Việc gì cũng bàn bạc với nhân dân, giải
thích cho nhân dân. Thế là phụ trách trước nhân dân.
Trái lại việc gì cũng dùng cách quan
liêu, cũng chỉ ra mệnh lệnh, thế là không phụ trách trước nhân dân. Thế là đem
hai chữ “mệnh lệnh” làm thành một bức tường để tách rời Đảng và Chính phủ với
nhân dân, tách rời lợi ích của nhân dân với chính sách của Đảng và Chính phủ.
Có nhiều cán bộ không bàn bạc, không giải
thích với dân chúng, không để cho dân chúng phát biểu ý kiến, giải quyết các
vấn đề, chỉ bắt buộc dân chúng làm theo mệnh lệnh. Thậm chí khi dân chúng đề ra
ý kiến và nêu rõ vấn đề, họ cũng tìm cách dìm đi. Họ chỉ làm theo ý kiến của
họ. Kết quả làm cho dân chúng nghi ngờ, uất ức, bất mãn.
Làm cách đó, thì dù việc đó có lợi cho
dân chúng, nhưng một là vì không có ý kiến và lực lượng của dân chúng giúp đỡ
nên làm
không đến nơi đến chốn. Hai là vì dân
chúng bị miễn cưỡng, nên không vui lòng. Ba là vì dân chúng không hiểu rõ, nên
việc đó không được lâu dài, bền vững.
Vì vậy, việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân
chúng, cùng dân chúng bàn bạc, và giải thích cho dân chúng.
Có người thường cho dân là dốt không biết
gì, mình là thông thái tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không
thèm bàn bạc với dân chúng.
Đó là một sự sai lầm nguy hiểm lắm. Ai có
sai lầm đó, phải mau mau sửa đổi. Nếu không sẽ luôn luôn thất bại.
Chúng ta phải biết rằng: Lực lượng của
dân chúng nhiều vô cùng.
Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho
chúng ta biết: Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng
được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra.
Kinh nghiệm các địa phương cho biết: Nơi
nào công việc kém, là vì cán bộ cách xa dân chúng, không cùng dân chúng bàn
bạc, không giải thích. Nơi kha khá, là vì cán bộ biết giải thích, biết cùng dân
chúng bàn bạc, nhưng chưa hoàn toàn. Nơi nào khá lắm là vì việc gì to nhỏ, cán
bộ cũng biết giải thích, biết cùng dân chúng bàn bạc đến nơi đến chốn, dựa vào
dân chúng.
Muốn dân chúng thành thật bày tỏ ý kiến,
cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi cho họ nói. Do ý kiến và
đề nghị lẻ tẻ của dân chúng, ta phải khéo gom góp lại, sắp đặt lại cho có ngăn
nắp, thứ tự rồi cùng dân chúng ra sức thi hành. Như vậy, vừa nâng cao trình độ
của dân chúng, mà cũng nâng cao kinh nghiệm của mình.
Đặc điểm rõ nhất trong tư tưởng của dân
chúng là họ hay so sánh.
Họ so sánh bây giờ và họ so sánh thời kỳ
đã qua. Họ so sánh từng việc và họ so sánh toàn bộ phận. Do sự so sánh, họ thấy
chỗ khác nhau, họ thấy mối mâu thuẫn. Rồi lại do đó, họ kết luận, họ đề ra cách
giải quyết.
Dân chúng so sánh đúng, giải quyết đúng,
là vì tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy.
Vì sự so sánh kỹ càng đó, mà cách giải
quyết của dân chúng bao giờ cũng gọn gàng, hợp lý, công bình.
Đối với cán bộ cũng vậy. Cán bộ nào tốt,
cán bộ nào xấu, cán bộ nào có lầm lỗi mà có thể sửa đổi, ai làm việc gì hay,
việc gì quấy, dân chúng cũng do cách so sánh đó, mà họ biết rõ ràng.
Vì vậy, để cho dân chúng phê bình cán bộ,
dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định không xảy ra việc thiên tư,
thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng. Đồng thời, do sự dùi mài của dân
chúng, cán bộ và dân chúng đều tiến bộ, lại do đó, cán bộ và dân chúng đoàn kết
chặt chẽ thêm.
Cố nhiên, dân chúng không nhất luật như
nhau. Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến
khác nhau. Có lớp tiền tiến, có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu.
Tuy vậy, khi đem vấn đề ra bàn trước dân
chúng, họ đem các ý kiến khác nhau so sánh. So đi sánh lại, sẽ lòi ra một ý
kiến mà mọi người đều tán thành, hoặc số đông người tán thành. Ý kiến đó, lại
bị họ so sánh tỉ mỉ từng đoạn, họ thêm điểm hay vào, bỏ điểm dở đi. Ý kiến đó
trở nên ý kiến đầy đủ, thiết thực.
Sau khi bàn bạc, so sánh, thêm thắt,
thành một ý kiến đầy đủ, ý kiến đó tức là cái kích thước nó tỏ rõ sự phát triển
trình độ của dân chúng trong nơi đó, trong lúc đó. Theo ý kiến đó mà làm, nhất
định thành công. Làm không kịp ý kiến đó, là đầu cơ, nhút nhát. Làm quá ý kiến
đó là mạo hiểm, hẹp hòi, “tả”.
Có nhiều cách hỏi ý kiến dân chúng. Nói
chuyện với từng người. Nói chuyện với đông người. Khai hội, nói chuyện với tầng
lớp này, nói chuyện với tầng lớp khác, với mọi tầng lớp.
Nếu ta chịu khó, chịu suy nghĩ, bất kỳ
nói chuyện với ai cũng có ích cho tư tưởng của ta.
Cố nhiên, không phải dân chúng nói gì, ta
cũng cứ nhắm mắt theo. Người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng
mà tự mình so sánh. Nghĩa là đem các ý kiến khác nhau để so sánh kỹ, phân tích
kỹ các nội dung của các tầng lớp xã hội có cái ý kiến đó. Tìm ra mối mâu thuẫn
trong những ý kiến khác nhau đó. Xem rõ cái nào đúng, cái nào sai. Chọn lấy ý
kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại, để nâng cao dần dần sự
giác ngộ của dân chúng. Thế gọi là: Tập trung ý kiến, ra sức thi hành.
So đi sánh lại, phân tích rõ ràng là cách
làm việc có khoa học. Mỗi công việc, chúng ta đều phải làm như thế. Làm như thế
mới tránh khỏi cái độc đoán, mới tránh khỏi sai lầm.
Nghĩa là: Nói chuyện và bàn bạc với cán
bộ như thế cũng chưa đủ, còn phải nói chuyện và bàn bạc với những phần tử hăng
hái trong quần chúng. Nói chuyện và bàn bạc với những phần tử hăng hái trong
quần chúng cũng chưa đủ, còn phải nói chuyện và bàn bạc với nhân dân. Đó là một
vấn đề rất trọng yếu cho cách làm việc của Đảng.
Từ trước đến nay, nhiều nơi công việc
không chạy, chính vì cán bộ không thực hành theo nguyên tắc đó. Nếu không làm
theo nguyên tắc đó, thì dù chính sách hay trăm phần trăm, cũng hoá ra vô dụng.
Chúng ta phải kiên quyết bỏ sạch lối quan liêu, lối chật hẹp, lối mệnh lệnh.
Chúng ta phải kiên quyết thực hành theo nguyên tắc sau đây:
1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc
với dân chúng, giải thích cho dân chúng.
2. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho
dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật
thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp
thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và
tổ chức của ta.
3. Chớ khư khư giữ theo “sáo cũ”. Luôn
luôn phải theo tình hình thiết thực của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình
độ giác ngộ của dân chúng, theo sự tình nguyện của dân chúng mà tổ chức họ, tuỳ
hoàn cảnh thiết thực trong nơi đó, và lúc đó, đưa ra tranh đấu.
4. Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi
quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái
đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải
quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân.
5. “Phải đưa chính trị vào giữa dân
gian”. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ
“dưới nhoi lên”. Làm như thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí, mà
Đảng ta sẽ phát triển rất mau chóng và vững vàng.
VII.
CHỐNG THÓI BA HOA
1.
Thói ba hoa là gì?
Chúng
ta chống bệnh chủ quan, chống bệnh hẹp hòi, đồng thời cũng phải chống thói ba
hoa. Vì thói này cũng hại như hai bệnh kia. Vì ba thứ đó thường đi với nhau. Vì
thói ba hoa còn, tức là bệnh chủ quan và bệnh hẹp hòi cũng chưa khỏi hẳn.
Thói
ba hoa từ đâu ra?
Vì
chúng ta trước kia học chữ Hán, sau này học chữ Pháp, cho nên khi nói khi viết,
hay dùng chữ Hán và theo cách Pháp. Thành thử dài dòng mà khó hiểu, khó nghe.
Lại cũng vì chủ quan và hẹp hòi.
Thói
ba hoa tỏ ra nhiều vẻ.
a)
Dài dòng, rỗng tuếch - Nhiều anh em hay viết dài. Viết dòng này qua dòng
khác, trang này qua trang khác. Nhưng không có ích cho người xem. Chỉ làm tốn
giấy tốn mực, mất công người xem. Khác nào vải băng bó mụn lở, đã thối lại dài.
Viết
làm gì dài dòng và rỗng tuếch như thế? Chỉ có một cách trả lời: Là quyết không
muốn cho quần chúng xem. Vì đã dài lại rỗng, quần chúng trông thấy đã lắc đầu,
ai còn dám xem nữa? Kết quả chỉ để cho những ai vô công rồi nghề xem, và người
xem cũng mắc phải thói xấu như người viết.
Trong
lúc kháng chiến này, chiến sĩ trước mặt trận phải đánh giặc, đồng bào ở hậu
phương phải tăng gia sản xuất. Ai có thời giờ đâu mà xem những bài dài quá.
Viết
dài mà rỗng, thì không tốt. Viết ngắn mà rỗng, cũng không hay. Chúng ta phải
chống tất cả những thói rỗng tuếch. Nhưng trước hết phải chống thói đã rỗng lại
dài.
Thế
những sách lý luận, hoặc cuốn sách này chẳng hạn, không phải dài sao?
Phải.
Nó dài, nhưng mỗi câu, mỗi chữ có một ý nghĩa, có một mục đích, không phải rỗng
tuếch.
Tục
ngữ nói: “Đo bò làm chuồng, đo người may áo”. Bất kỳ làm việc gì cũng phải có
chừng mực. Viết và nói cũng vậy. Chúng ta chống là chống nói dài, viết rỗng.
Chứ không phải nhất thiết cái gì cũng phải ngắn mới tốt.
Viết
và nói cố nhiên phải vắn tắt. Song trước hết phải có nội dung. Phải chữa cho
hết bệnh nói dài, viết rỗng.
b)
Có thói “cầu kỳ” - Trên các báo, sách, bức tường, thường có những bức vẽ,
những khẩu hiệu, nhiều người xem không ra, đọc không được.
Họ
cho thế là “mỹ thuật”. Kỳ thực, họ viết, họ vẽ, để họ xem thôi.
Người
tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu
không vậy, thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người
ta xem.
Nhiều
người tưởng: Mình viết gì, nói gì, người khác cũng đều hiểu được cả. Thật ra,
hoàn toàn không như thế. Dùng cả đoạn chữ Hán, dùng từng đống danh từ lạ, nói
hoặc viết theo cách Tây, mỗi câu dài dằng dặc, thì quần chúng hiểu sao được?
Tục
ngữ nói “gẩy đờn tai trâu” là có ý chế người nghe không hiểu. Song những người
tuyên truyền mà viết và nói khó hiểu, thì chính người đó là “trâu”.
Muốn
làm bạn, phải hiểu nhau. Nếu không hiểu nhau, không thành bạn. Người tuyên
truyền không điều tra, không phân tách, không nghiên cứu, không hiểu biết quần
chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy, nhất định thất bại.
c)
Khô khan, lúng túng - Nói đi nói lại, cũng chẳng qua kéo ra những chữ
“tích cực, tiêu cực, khách quan, chủ quan”, và một xốc danh từ học thuộc lòng.
Thậm chí những danh từ đó dùng cũng không đúng. Chỉ làm cho quần chúng chán và
ngủ gật.
Chúng
ta muốn tuyên truyền quần chúng, phải học cách nói của quần chúng, mới nói lọt
tai quần chúng.
Tục
ngữ có câu: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Nói cũng phải học, mà phải chịu
khó học mới được. Vì cách nói của dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát, rất thiết
thực, mà lại rất giản đơn. Anh em đi tuyên truyền chưa học được cách nói đó,
cho nên khi viết, khi nói, khô khan, cứng nhắc, không hoạt bát, không thiết
thực.
Tiếng
ta còn thiếu, nên nhiều lúc phải mượn tiếng nước khác, nhất là tiếng Trung
Quốc. Nhưng phải có chừng có mực. Tiếng nào ta sẵn có thì dùng tiếng ta.
Có
nhiều người có bệnh “dùng chữ Hán”, những tiếng ta sẵn có không dùng mà dùng
chữ Hán cho bằng được. Thí dụ: Ba tháng không nói ba tháng mà nói “tam cá
nguyệt”. Xem xét, không nói xem xét mà nói “quan sát”, v.v..
Nhưng
sẽ “tả” quá nếu những chữ Hán đã hoá thành tiếng ta, ai cũng hiểu, mà cố ý
không dùng. Thí dụ: Độc lập mà nói “đứng một”, du kích thì nói “đánh chơi”. Thế
cũng là tếu.
Chúng
ta không chống mượn tiếng ngoại quốc để làm cho tiếng ta đầy đủ thêm. Nhưng
chúng ta phải chống cách mượn không phải lối, mượn đến nỗi bỏ cả tiếng ta, đến
nỗi quần chúng không hiểu.
Chẳng
những các người phụ trách tuyên truyền, những người viết báo, viết sách, những
người nghệ sĩ là người tuyên truyền, mà tất cả cán bộ, tất cả đảng viên, hễ
những người có tiếp xúc với dân chúng đều là người tuyên truyền của Đảng. Vì
vậy, ai cũng phải học nói nhất là học nói cho quần chúng hiểu.
Nhiều
người, trước khi nói không sắp sửa kỹ càng. Lúc ra nói hoặc lắp lại những cái
người trước đã nói. Hoặc lắp đi lắp lại cái mình đã nói rồi. Lúng túng như gà
mắc tóc. Thôi đi thì trẽn. Nói nữa thì chán tai.
d)
Báo cáo lông bông - Một là báo cáo giả dối. Thành công ít, thì suýt ra
nhiều. Còn khuyết điểm thì giấu đi, không nói đến. Thành thử cấp trên không
hiểu rõ tình hình mà đặt chính sách cho đúng. Hoặc báo cáo chậm trễ. Thành thử
khi cấp trên nhận được báo cáo, thì việc đã trễ rồi, không đối phó kịp.
Hai
là trong báo cáo chỉ thấy 1, 2, 3, 4 hoặc a, b, c, v.v.. Không nêu rõ vấn đề
ra. Không phân tách, không đề nghị cách giải quyết các vấn đề. Không nói rõ tán
thành hoặc phản đối.
Sao
gọi là vấn đề ? Khi việc gì có mâu thuẫn, khi phải tìm cách giải quyết, tức là
có vấn đề. Khi đã có vấn đề, ta phải nghiên cứu cho rõ cái gốc mâu thuẫn trong
vấn đề đó là gì. Phải điều tra, phải nghiên cứu cái mâu thuẫn đó. Phải phân
tách rõ ràng và có hệ thống, phải biết rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào
là mâu thuẫn phụ. Phải đề ra cách giải quyết.
Gặp
mỗi vấn đề, đều phải kinh qua ba bước: Đề nó ra, phân tách nó (điều tra, nghiên
cứu, sắp đặt), giải quyết nó.
Khi
viết một bài hoặc khi diễn thuyết cho khỏi rỗng tuếch, cũng phải như thế.
đ)
Lụp chụp cẩu thả - Những tệ kể trên, một phần vì thiếu kinh nghiệm, mà một
phần vì tính lụp chụp, cẩu thả.
Một
thí dụ rất rõ ràng: Mỗi ngày, chúng ta ai cũng rửa mặt. Rửa mặt rồi, thì chải
đầu. Nhiều người chải đầu rồi, còn soi gương xem đã sạch, đã mượt chưa. Nếu
viết bài và diễn thuyết cũng cẩn thận như thế thì chắc không đến nỗi có nhiều
khuyết điểm.
Không
biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần
viết, chớ nói, chớ viết càn. Khi viết xong một bài báo, một bản báo cáo, hoặc
thảo một bài diễn văn, nhất định phải đọc lại vài lần. Mình tự phê bình bài của
mình, hỏi ý kiến đồng chí khác. Những câu những chữ thừa, vô ích bỏ đi.
Rửa
mặt phải kỳ xát vài ba lần mới sạch. Viết văn, diễn thuyết cũng phải như vậy.
e)
Bệnh theo “sáo cũ” - Chẳng những viết, nói, có thói ba hoa, mà huấn luyện,
khai hội cũng mắc chứng đó.
Mở
lớp huấn luyện là một việc rất tốt, rất cần. Nhưng phải hiểu rằng: Học cốt để
mà làm. Học mà không làm được, học mấy cũng vô ích.
Vì
vậy huấn luyện phải thiết thực, sao cho những người đến học, học rồi, về địa
phương họ có thể thực hành ngay. Nhiều đồng chí ta không hiểu cái lẽ rất giản
đơn đó. Cho nên họ đã đưa “thặng dư giá trị” nhồi sọ cho thanh niên và phụ nữ
nông dân. Họ đã đưa “tân dân chủ chủ nghĩa” nhồi sọ các em nhi đồng. Họ đã đưa
“biện chứng pháp” nhồi sọ công nhân đang học quốc ngữ.
Chỉ
trong một cuộc khai hội ở địa phương, chúng ta đã có thể thấy rất nhiều khuyết
điểm.
1.
Kém chuẩn bị - Đảng viên đến chỗ khai hội rồi, mà cũng chưa biết vì việc gì mà
khai hội. Đến khi chủ tịch mời mọi người phát biểu ý kiến thì quần chúng ai có
sẵn ý kiến mà phát biểu ?
2.
Nói mênh mông - Thường thường đại biểu cấp trên đến khai hội với cấp dưới,
trong lúc khai hội, chỉ một mình “ông” đại biểu, hay “bà” đại biểu nói, nói
hàng hai, ba giờ đồng hồ. Nói mênh mông trời đất. Nói gì cũng có. Nhưng chỉ
chừa một điều không nói đến là những việc thiết thực cho địa phương đó, những
việc mà dân chúng ở đó cần biết, cần hiểu, cần làm, thì không nói đến!
3.
Không đúng giờ - Hẹn khai hội tám giờ thì chín, mười giờ mới đến. Làm mất thời
giờ của những người khác. Họ không hiểu rằng: Giữ đúng thời giờ là một tính tốt
của người cách mạng, nhất là trong lúc kháng chiến này.
4.
Giữ nếp cũ - Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, cũng khư khư giữ theo nếp cũ:
1.
Tình hình thế giới.
2.
Tình hình Đông Dương.
3.
Báo cáo công tác.
4.
Thảo luận.
5.
Phê bình.
6.
Giải tán.
Hiểu
biết tình hình thế giới và trong nước, cố nhiên là việc hay, việc cần. Nhưng
khổ thay! Nếu có đại biểu cấp cao đến, thì ông ấy kéo hàng giờ nào kế hoạch
Mácsan, nào xứ Paragoay, nào gì gì, mà bà con không hiểu chi hết ! Nếu chỉ cán
bộ cấp xã, thì biết đâu tình hình thế giới mà nói. Thế mà điểm thứ nhất cứ phải
là “tình hình thế giới”.
Kết
quả là việc thiết thực, việc đáng làm thì không bàn đến.
g)
Nói không ai hiểu - Đảng thường kêu gọi khoa học hoá, dân tộc hoá, đại
chúng hoá. Khẩu hiệu đó rất đúng. Tiếc vì nhiều cán bộ và đảng viên, có “hoá”
gì đâu! Vẫn cứ chứng cũ, nếp cũ đó. Thậm chí, miệng càng hô “đại chúng hoá”, mà
trong lúc thực hành thì lại “tiểu chúng hoá”. Vì những lời các ông ấy nói,
những bài các ông ấy viết, đại chúng không xem được, không hiểu được. Vì họ
không học quần chúng, không hiểu quần chúng.
Nhiều
tờ truyền đơn, nhiều bản nghị quyết, nhiều khẩu hiệu của Đảng, mục đích và ý
nghĩa rất đúng. Nhưng viết một cách cao xa, mầu mè, đến nỗi chẳng những quần
chúng không hiểu, mà cả cán bộ cũng không hiểu.
Thí
dụ: Vừa rồi đây, đi đến đâu cũng thấy dán những khẩu hiệu:
“Chống
cô độc”
“Chống
chủ quan”
“Chống
địa phương”.
Nhưng
khi hỏi kỹ, thì hơn chín phần mười cán bộ cấp dưới không hiểu gì hết. Họ nói:
Cấp trên bảo dán cứ phải dán, chứ thật ra chúng tôi không hiểu. Thậm chí có
người luôn miệng đọc là “chống quan địa phương”.
Than
ôi! Khẩu hiệu cách mạng của Đảng mà hoá ra lá bùa của thầy cúng. Lỗi đó tự ai ?
Thế mà bảo “đại chúng hoá”, “dân tộc hoá” thì hoá cái gì?
Mỗi
khẩu hiệu của Đảng phải là cái ý nguyện và mục đích của hàng ức đảng viên và
của hàng triệu dân chúng. Mà muốn như thế, phải làm cho dân chúng đều hiểu,
phải học cách nói của dân chúng. Nếu không hàng vạn khẩu hiệu cũng vô ích.
h)
Bệnh hay nói chữ - Tiếng ta có thì không dùng, mà cứ ham dùng chữ Hán.
Dùng đúng, đã là một cái hại, vì quần chúng không hiểu. Nhiều người biết không
rõ, dùng không đúng, mà cũng ham dùng, cái hại lại càng to.
Thí
dụ: Pháp và Việt gian bắt buộc đồng bào đi biểu tình, mà một tờ báo nọ của đoàn
thể viết là những “cuộc biểu tình tự động”. Dùng quân đội quét một vùng, tiếng
Trung Quốc gọi là tảo đãng, mà một tờ báo của đoàn thể viết là “tảo đảm”. Lại
có tờ viết là “tảo đảng”!
Tục
ngữ nói: “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Cái bệnh nói chữ đó đã lây ra, đã
làm hại đến quần chúng. Vì vậy, có người đã nói:
“Chúng
tôi xin thông phong” (xung phong).
“Các
đồng chí phải luyến ái nhau” (thân ái nhau), v.v.. Trong một cuộc khai hội phụ
nữ, có chị cán bộ nọ lên nói: “Thưa chị em, tôi xin bá cáo kinh nguyệt của tôi
trong tháng này”.
Không,
đó không phải là những chuyện cười, đó là những chuyện thật. Những chuyện thật
đáng đau lòng, do bệnh hay nói chữ sinh ra hoặc do bệnh dốt sinh ra.
2.
Cách chữa thói ba hoa.
Trên
đây đã kể qua những chứng ba hoa. Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ đều phải ra sức sửa
chữa bệnh đó. Nếu không, sẽ có hại to cho công việc của Đảng.
Sau
đây là liều thuốc chữa thói ba hoa. Mọi người phải hiểu, phải nhớ, phải thực
hành:
1.
Phải học cách nói của quần chúng. Chớ nói như cách giảng sách.
Mỗi
tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của
quần chúng.
2.
Phải luôn luôn dùng những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ hiểu.
3.
Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được. Làm sao
cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi của mình. Bao
giờ cũng phải tự hỏi: “Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe”?
4.
Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết.
5.
Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu tục ngữ:
“Chó ba quanh mới nằm. Người ba năm mới nói”.
Sau
khi viết rồi, phải xem đi xem lại ba, bốn lần. Nếu là một tài liệu quan trọng,
phải xem đi xem lại chín, mười lần.
Làm
được như thế - đảng viên và cán bộ ta quyết phải làm như thế - thì thói ba hoa
sẽ bớt dần dần cho đến khi hoàn toàn hết sạch mà công việc của Đảng, tư cách
của cán bộ và đảng viên sẽ do đó mà tăng thêm./.
Tháng
10 năm 1947
Ký tên: X.Y.Z.
—————————-
Nxb.
Sự thật xuất bản lần đầu tiên năm 1948
Xuất bản lần thứ 7, năm 1959.
Theo sách xuất bản lần thứ 7, năm 1959.
Theo trang
tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh