Tổng Bí thư Tô Lâm: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một
Dân tộc Việt Nam đã phải đối mặt
với muôn vàn gian khổ, hy sinh, mất mát nhưng chưa bao giờ, ý chí về một nước
Việt Nam độc lập, thống nhất bị lay chuyển.
Thời khắc lá cờ giải phóng tung
bay trên nóc Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc
như một sự kiện trọng đại – ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất, non sông thu về một mối. Đó không chỉ là chiến thắng vĩ đại của nhân dân
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy khó khăn gian khổ, mà còn
là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của ý chí độc lập, tự
cường và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Khát vọng về một Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, tự do là ngọn lửa thiêng hun đúc tinh thần dân tộc
suốt hàng nghìn năm lịch sử. Từ khi Vua Hùng dựng nước cho tới hôm nay, trải
qua bao cuộc kháng chiến chống ngoại xâm giữ gìn giang sơn, bờ cõi, lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Bác Hồ, khát vọng ấy luôn là sức mạnh tinh thần không gì sánh nổi,
thôi thúc các tầng lớp nhân dân, muôn người như một, chung sức, đồng lòng, vượt
mọi gian nan, thử thách để giành lại nền độc lập vào năm 1945, đánh đuổi thực
dân vào năm 1954 và thống nhất đất nước vào năm 1975.
Thắng lợi của dân tộc
anh hùng
Chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm
1975 không chỉ có ý nghĩa kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài và khốc liệt nhất
trong lịch sử hiện đại Việt Nam, mà còn là mốc son chói lọi trong hành trình dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Đó là chiến thắng của niềm tin, của ước nguyện độc
lập, tự do và thống nhất đất nước; chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam; chiến thắng của
chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" và của
tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu, bất khuất ngàn đời của nhân dân
Việt Nam, của các lực lượng tiến bộ và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Chiến thắng 30/04/1975 là thành
quả quyết tâm sắt đá của dân tộc Việt Nam về một đất nước thống nhất, không thể
bị chia cắt bởi bất kỳ thế lực nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài
của dân tộc – đã khẳng định chân lý bất diệt: "Nước Việt Nam là một,
dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy
không bao giờ thay đổi."
Lời của Bác không chỉ là tuyên
ngôn thiêng liêng về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là ngọn đuốc soi đường,
là nguồn cảm hứng, truyền sức mạnh cho mọi thế hệ người Việt Nam trong suốt những
năm tháng chiến tranh gian khổ và khốc liệt. Chiến thắng 30/04/1975 là minh chứng
sống động cho triết lý của thời đại "Không có gì quí hơn độc lập tự
do".
Không chỉ là thắng lợi quân sự,
Chiến thắng 30/04/1975 còn là sự kết tinh của trí tuệ, bản lĩnh và khát khao
mãnh liệt về một nền hòa bình bền vững, về quyền tự quyết của một dân tộc từng
bị đô hộ, chia cắt và áp bức. Như lời của đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn "chiến
thắng đó không phải của riêng ai, mà của cả dân tộc Việt Nam". Và
như nhà thơ Tố Hữu từng viết "Không nỗi đau nào của riêng ai/ Của
chung nhân loại chiến công này".
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 cũng
đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trên trường quốc tế, cổ vũ sâu sắc phong trào giải
phóng dân tộc tại nhiều khu vực Á, Phi, Mỹ Latin; khích lệ các dân tộc đứng lên
chống lại chủ nghĩa thực dân mới và giành lại quyền tự do, độc lập. Đó là chiến
thắng của công lý trước cường quyền, lời khẳng định trước cộng đồng quốc tế rằng:
một dân tộc dù nhỏ bé nhưng nếu có chính nghĩa, đoàn kết và ý chí kiên cường, với
sự ủng hộ, giúp đỡ trong sáng của bạn bè quốc tế, của các lực lượng tiến bộ và của
nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới thì chắc chắn sẽ chiến thắng những
thế lực mạnh hơn gấp nhiều lần.
Tổng Bí thư Tô Lâm gặp mặt các tướng
lĩnh, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, thanh niên xung phong, dân công hỏa
tuyến, biệt động Sài Gòn... từng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, nhân dịp kỷ
niệm 50 năm Ngày thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025).
Ý chí, tâm nguyện thống
nhất đất nước
Trong suốt 30 năm trường kỳ kháng
chiến chống thực dân và đế quốc (1945–1975), dân tộc Việt Nam đã phải đối mặt với
muôn vàn gian khổ, hy sinh, mất mát nhưng chưa bao giờ, ý chí về một nước Việt
Nam độc lập, thống nhất bị lay chuyển.
Trong lời kêu gọi nhân ngày Quốc
khánh 02/09/1955, Bác Hồ khẳng định: "Nước Việt Nam nhất định sẽ
thống nhất, vì nước ta là một khối, không ai chia cắt được". Trong
thư gửi đồng bào cả nước năm 1956, Bác viết "Thống nhất nước nhà
là con đường sống của Nhân dân ta". Khi chiến tranh đang ở giai đoạn
cam go, ác liệt nhất, ngày 17/07/1966, Người tuyên bố đanh thép rằng "Chiến
tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng
và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song Nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, Nhân
dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
Và đúng như vậy, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, quân dân
Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, từng bước đánh bại các chiến lược chiến
tranh hiện đại, với lòng tin sắt đá vào sức mạnh của chính nghĩa và tinh thần độc
lập dân tộc.
Tuyên ngôn "Nước Việt
Nam là một, dân tộc Việt Nam là một" của Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ là một chân lý, một định hướng chiến lược, mà còn là mệnh lệnh từ
trái tim của cả dân tộc. Trong khói lửa chiến tranh, câu nói ấy trở thành nguồn
sức mạnh to lớn, truyền cảm hứng mạnh mẽ, tạo động lực cho hàng triệu người Việt
Nam bước ra mặt trận với ý chí "quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh". Lời của Bác là lời hiệu triệu thiêng liêng, là biểu tượng của
lòng quyết tâm vượt qua mọi đau thương, gian khổ, để giành bằng được độc lập, tự
do cho dân tộc, thống nhất cho đất nước và hạnh phúc ấm no cho Nhân dân.
Trong suốt hơn 30 năm kháng chiến
và kiến quốc, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng chiến đấu, hy
sinh, biết bao gia đình mất mát người thân, làng mạc, đô thị bị tàn phá, bao thế
hệ thanh niên phải tạm gác ước mơ học tập, hoài bão tương lai để lên đường bảo
vệ Tổ quốc với lời thề "chưa hết giặc là ta chưa về". Những
người mẹ tiễn con, vợ tiễn chồng ra trận mà không hẹn ngày trở lại. Những em nhỏ
lớn lên trong mưa bom, bão đạn, học chữ dưới hầm, ăn ngô, khoai, sắn thay cơm.
Biết bao bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã ngã xuống trên dải
đất hình chữ S của Tổ quốc, những chiến sĩ biệt động thành chiến đấu giữa lòng
địch, dân quân du kích ở bưng biền, làng bản, những chiến sĩ giải phóng quân vượt
qua Bến Hải, vượt Trường Sơn... tất cả đều mang trong mình một niềm tin mãnh liệt:
dân tộc Việt Nam sẽ giành lại quyền làm chủ đất nước mình, Nam Bắc nhất định sẽ
sum họp một nhà.

Việt Nam đang tiếp tục viết nên một
bản hùng ca mới – bản hòa ca của đổi mới, hội nhập, phát triển và ý chí vươn
lên mạnh mẽ trong thế kỷ XXI
Chiến thắng 30/04/1975 là thành
quả kết tinh từ lý tưởng và ý chí thép của một dân tộc không bao giờ bị khuất
phục, từ máu xương của hàng triệu người con đất Việt, từ tình yêu quê hương, đất
nước, từ bản lĩnh, niềm tin chiến thắng và quyết tâm không bao giờ lùi bước.
Tròn nửa thế kỷ đã đi qua kể từ
ngày nước non liền một dải, nhưng những âm hưởng của khúc khải hoàn vẫn ngân
nga trong tâm hồn dân tộc Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm sự kiện trọng đại này,
chúng ta thành kính tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Lãnh tụ thiên tài
của Đảng và dân tộc ta, Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải
phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, Người chiến sỹ lỗi lạc của phong
trào cộng sản quốc tế, người đã đặt nền móng tư tưởng cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc và thống nhất đất nước; tri ân và tưởng nhớ các đồng chí
lãnh đạo tiền bối của Đảng, các Anh hùng liệt sỹ, nhân sĩ, trí thức, đồng bào
và chiến sỹ trên khắp mọi miền Tổ quốc đã anh dũng chiến đấu, hy sinh cho lý tưởng
cao đẹp đó. Các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ công ơn và sự
hy sinh to lớn vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc ấm no của nhân dân và vì sự
trường tồn, phát triển của dân tộc.
Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đối với bạn bè quốc tế – các lực lượng tiến bộ, các nước xã hội chủ nghĩa
anh em, các tổ chức nhân đạo và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới
– đã đồng hành, giúp đỡ và ủng hộ Việt Nam trong suốt những năm tháng đấu tranh
giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp tái thiết và phát triển đất nước
sau chiến tranh. Tình cảm và sự hỗ trợ chí nghĩa, chí tình, vô tư trong sáng đó
sẽ mãi mãi được nhân dân Việt Nam trân trọng, yêu quý và khắc ghi trong trái
tim mình.
Nửa thế kỷ khôi phục,
hàn gắn và phát triển
Trong hơn một thế kỷ qua, dân tộc
Việt Nam đã trải qua những trang sử bi tráng, phải gánh chịu biết bao đau
thương, mất mát dưới ách đô hộ, áp bức của thực dân, phong kiến và đặc biệt là
hai cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hơn ba thập kỷ. Chiến tranh không chỉ lấy
đi sinh mạng của hàng triệu người, mà còn để lại những di chứng sâu sắc về thể
chất, tinh thần, kinh tế xã hội và môi trường, ảnh hưởng đến cả những thế hệ
sinh ra khi tiếng súng đã ngưng. Không có vùng đất nào trên quê hương Việt Nam
không có đau thương; không có gia đình nào mà không gánh chịu những mất mát, hy
sinh và cho đến nay chúng ta vẫn còn phải khắc phục hậu quả chiến tranh và bom
mìn, chất độc da cam…
Nhưng thời gian, lòng nhân ái, đức
vị tha đã giúp dân tộc ta từng bước vượt qua nỗi đau, chữa lành vết thương, gác
lại quá khứ, tôn trọng sự khác biệt, hướng tới tương lai. Sau 50 năm đất nước
thống nhất, chúng ta đã có đủ bản lĩnh, đủ niềm tin, sự tự hào và đủ bao dung để
vượt qua đau thương cùng nhau nhìn về phía trước – để cuộc chiến tranh đã qua
không còn là hố ngăn cách giữa những người con cùng một dòng máu Lạc Hồng.
Trên hành trình phát triển ấy,
chính sách hòa hợp dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước xác định là lựa chọn chiến
lược lâu dài, là trụ cột trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chúng ta hiểu rõ
những nguyên nhân lịch sử dẫn đến chiến tranh – từ sự can thiệp, chia rẽ bên
ngoài cho đến những âm mưu phá hoại tinh thần đoàn kết, gieo rắc thù hận vì mưu
đồ chính trị. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng: mọi người Việt Nam, dù ở trong nước
hay ngoài nước, dù từng đứng ở phía nào của lịch sử, đều cùng mang một cội nguồn,
một ngôn ngữ, một tình yêu dành cho quê hương, đất nước.
Những năm qua, trong các chuyến
công tác tới hầu khắp các châu lục, tôi đã có nhiều dịp gặp gỡ hàng ngàn đồng
bào Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài – từ những trí thức trẻ lập nghiệp tại
châu Âu, châu Mỹ, Châu Á, Châu Đại Dương đến những doanh nhân thành đạt, nghệ
sĩ nổi tiếng, người lao động bình dị ở các "miền đất mới", kể cả nhiều
người thuộc "phía bên kia" trước đây. Mỗi cuộc gặp đều để lại trong
tôi một ấn tượng sâu sắc: dù có thể khác biệt về quan điểm chính trị, trải nghiệm
lịch sử hay điều kiện sống, họ đều mang trong lòng niềm tự hào dân tộc, đều
là "con dân đất Việt" và nỗi nhớ da diết với hai tiếng
Quê hương.
Tôi từng chứng kiến nhiều cuộc gặp
gỡ đầy cảm động giữa các cựu chiến binh Việt Nam và cựu binh Hoa Kỳ – những người
từng đứng ở hai bên chiến tuyến, từng cầm súng đối đầu, nay có thể bắt tay, trò
chuyện, chia sẻ với nhau bằng sự thấu hiểu chân thành và không còn mặc cảm.
Ngày hôm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ – từ cựu thù – đã trở thành đối tác chiến lược
toàn diện, cùng hợp tác vì hòa bình, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì an
ninh và ổn định khu vực. Vậy thì không có lý do gì để những người Việt Nam –
cùng chung huyết thống, cùng một mẹ Âu Cơ, luôn đau đáu về một đất nước thống
nhất, phồn vinh – lại còn mang mãi trong lòng nỗi hận thù, chia rẽ và ngăn
cách.
Hòa hợp dân tộc không có nghĩa là
quên lãng lịch sử hay xóa nhòa sự khác biệt, mà là chấp nhận những góc nhìn
khác nhau trong tinh thần bao dung và tôn trọng, để cùng hướng tới mục tiêu lớn
hơn: xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, hùng mạnh, văn minh, thịnh
vượng, để các thế hệ mai sau không bao giờ phải chứng kiến chiến tranh, chia ly
và hận thù, mất mát như cha ông từng đối mặt.
Chúng ta tin tưởng rằng, mọi người
con đất Việt – dù sinh sống ở đâu, dù quá khứ thế nào – đều có thể đồng hành,
chung sức, góp phần xây dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Đảng và Nhà
nước luôn nhất quán mở rộng vòng tay, trân trọng mọi đóng góp, lắng nghe mọi tiếng
nói xây dựng, đoàn kết từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài – những người đang
góp phần kết nối Việt Nam với thế giới.
Chúng ta không thể viết lại lịch
sử, nhưng chúng ta có thể hoạch định lại tương lai. Quá khứ là để ghi nhớ, để
tri ân và để rút ra bài học. Tương lai là để cùng nhau xây dựng kiến tạo và
phát triển. Đó là lời hứa danh dự của thế hệ hôm nay với những người đã ngã xuống,
là tâm nguyện chung của một dân tộc từng trải qua nhiều đau thương nhưng chưa
bao giờ khuất phục.

Mọi người con đất Việt – dù sinh
sống ở đâu, dù quá khứ thế nào – đều có thể đồng hành, chung sức, góp phần xây
dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc
Cách đây 50 năm, dân tộc Việt Nam
đã viết nên một bản anh hùng ca chói lọi bằng ý chí sắt đá và bản lĩnh kiên cường
– đó là bản hòa ca của ý chí, quyết tâm, thống nhất và hòa bình. Nửa thế kỷ
sau, chính dân tộc ấy đang tiếp tục viết nên một bản hùng ca mới – bản hòa ca của
đổi mới, hội nhập, phát triển và ý chí vươn lên mạnh mẽ trong thế kỷ XXI. Trước
đây, không một người Việt Nam chân chính nào muốn đất nước mình bị chia cắt.
Ngày nay, chắc chắn không một người Việt Nam chân chính nào lại không mong đất
nước mình ngày càng hùng cường, thịnh vượng, sánh vai cùng các cường quốc năm
châu.
Nhìn về phía trước –
kế tục và kiến tạo, đổi mới và phát triển
Hơn ai hết, thế hệ hôm nay hiểu
rõ rằng độc lập và thống nhất không phải là cái đích cuối cùng, mà là điểm khởi
đầu cho một hành trình mới: hành trình xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
giàu mạnh, văn minh, phát triển và trường tồn. Nếu như thế hệ cha anh đã khắc
ghi chân lý "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một" bằng
những hy sinh mất mát, thì thế hệ hôm nay phải biến lý tưởng đó thành động lực
phát triển, thành đôi cánh vươn lên trong thời đại mới.
Tinh thần thống nhất đất nước – từng
là niềm tin và ý chí sắt đá để vượt qua khó khăn, thử thách, mưa bom, bão đạn –
nay phải trở thành quyết tâm chính trị, ý chí đổi mới và hành động cụ thể để bảo
vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân. Phải làm cho mỗi người Việt Nam, dù ở đâu, dù
làm gì, đều tự hào về đất nước, tin tưởng vào tương lai, và có cơ hội đóng góp
vào sự phát triển chung.
Trong bối cảnh thế giới biến động
nhanh, khó lường, Việt Nam cần phải có bản lĩnh vững vàng, tỉnh táo, không để bị
cuốn vào những vòng xoáy địa – chính trị hay rơi vào thế bị động trước các xung
đột quốc tế. Mỗi khúc quanh của lịch sử thế giới đều có thể trở thành cơ hội hoặc
thách thức lớn cho các quốc gia nhỏ nếu chuẩn bị tốt hoặc không tốt nội lực.
Dân tộc Việt Nam hơn ai hết hiểu rất rõ hậu quả tàn khốc của chiến tranh, chúng
ta là dân tộc yêu chuộng hòa bình, không bao giờ muốn chiến tranh xảy ra và sẽ
làm mọi điều để chiến tranh không xảy ra. Nhưng, nếu "kẻ thù buộc
chúng ta ôm cây súng" thì chúng ta sẽ vẫn là người chiến thắng.
Hơn lúc nào hết, chúng ta cần xây dựng một nền kinh tế tự lực, tự cường; một nền
quốc phòng- an ninh toàn dân, toàn diện và hiện đại; một hệ thống chính trị
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, một xã hội phát triển, đoàn kết, văn hóa và nhân
văn.
Muốn như vậy, nhất thiết phải
phát huy trí tuệ và sức mạnh của toàn dân tộc, trong đó có cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài – bộ phận không tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân. Trong
kỷ nguyên số, kỷ nguyên của kết nối toàn cầu, mỗi người Việt Nam ở khắp năm
châu đều có thể góp phần vào công cuộc dựng xây đất nước bằng chính tri thức, sự
sáng tạo, lòng yêu nước và trách nhiệm công dân.
Kỷ nguyên mới mà chúng ta đang bước
tới – với công nghệ trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh và phát triển
bền vững – đòi hỏi phải có tư duy mới, mô hình phát triển mới, con người mới.
Trước mắt, chúng ta còn nhiều thách thức về thể chế, năng suất lao động, chất
lượng nguồn nhân lực, an ninh môi trường, dịch bệnh, biến đổi khí hậu và cả những
nguy cơ an ninh phi truyền thống. Nhưng lịch sử đã chứng minh: dân tộc Việt Nam
chưa từng lùi bước trước gian nan, khó khăn, thách thức. Vấn đề là chúng ta có
đủ dũng khí để thay đổi, đủ ý chí để vươn lên, và đủ đoàn kết để biến khó khăn
thành động lực phát triển hay không.
Thế hệ hôm nay – từ cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức đến công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, học
sinh, sinh viên, mọi tầng lớp nhân dân đều là con Rồng cháu Tiên – cần ý thức
sâu sắc rằng: chúng ta đang thừa hưởng những giá trị di sản vĩ đại từ cha ông,
và chúng ta có trách nhiệm làm rạng danh đất nước trong thời đại mới. Mỗi hành
động hôm nay phải xứng đáng với máu xương đã đổ xuống, với những hy sinh mất
mát mà cả dân tộc đã từng gánh chịu.
Chúng ta không thể để đất nước tụt
hậu. Chúng ta không thể để dân tộc đánh mất cơ hội. Chúng ta không thể để lặp lại
những vòng xoáy của lịch sử. Vì vậy, phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên
trên hết. Chúng ta phải hành động vì tương lai lâu dài chứ không vì thành tích
ngắn hạn. Phải kiên định giữ gìn độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn
môi trường hòa bình, ổn định. Đồng thời phải đổi mới mạnh mẽ trong tư duy phát
triển, cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, kinh tế thị trường
định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng
Xã hội XHCN hiện đại.
Nhìn về phía trước, chúng ta hoàn
toàn có quyền tự hào tin tưởng vào sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam – một
dân tộc đã bao lần đánh thắng ngoại xâm và đứng dậy từ chiến tranh, khẳng định
mình trước lịch sử và trước thế giới. Với truyền thống nghìn năm dựng nước và
giữ nước, với khát vọng vươn lên không ngừng, với thế hệ trẻ tài năng, hoài
bão, yêu nước, sáng tạo và đầy bản lĩnh – Việt Nam nhất định sẽ thành công.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của những
dân tộc biết làm chủ vận mệnh của mình. Và dân tộc Việt Nam – với tất cả những
bài học từ quá khứ, với tất cả sự đoàn kết hôm nay – nhất định sẽ viết tiếp những
chương mới rực rỡ trong hành trình phát triển của mình. Vì một nước Việt Nam độc
lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh, văn minh, thịnh vượng, có vị thế và tiếng nói
quan trọng trong cộng đồng quốc tế./.
TL
Nguồn: chinhphu.vn